1. Về bố cục và nội dung của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 bao gồm 9 chương và 133 điều, cụ thể như sau:
Chương I. Những quy định chung (có 7 điều, từ Điều 1 đến Điều 7), Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh của Luật; những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam; giải thích từ ngữ; trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với hôn nhân và gia đình; các hành vi bị cấm; nguyên tắc áp dụng Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan; áp dụng tập quán trong hôn nhân và gia đình.
Chương II. Kết hôn (gồm 9 điều, từ Điều 8 đến Điều 16) Chương này quy định điều kiện về tuổi kết hôn, năng lực chủ thể trong kết hôn, những điều cấm trong kết hôn, đăng ký kết hôn và đường lối giải quyết đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật; giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Chương III. Quan hệ giữa vợ và chồng (gồm 34 điều,từ Điều 17 đến Điều 50,) Chương này quy định về quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng, việc đại diện cho nhau giữa vợ và chồng, nguyên tắc chung của chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định; bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trường hợp vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản này.
Chương IV. Chấm dứt hôn nhân (gồm 16 điều, từ Điều 51 đến Điều 67) chương này quy định về ly hôn; hôn nhân chấm dứt do vợ, chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết.
Chương V. Quan hệ giữa cha mẹ và con (gồm 34 điều, từ Điều 68 đến Điều 102) Chương này quy định về quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa cha mẹ và con; quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con khi ly hôn; hạn chế quyền của cha mẹ đối với con; căn cứ xác định cha, mẹ, con; nhận cha, mẹ, con; xác định con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Chương VI. Quan hệ giữa các thành viên khác của gia đình (gồm 4 điều, từ Điều 103 đến Điều 106) Chương này quy định về các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản; nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và nuôi dưỡng giữa các thành viên khác của gia đình.
Chương VII. Cấp dưỡng (gồm 14 điều, từ Điều 107 đến Điều 120); Chương này quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng; cấp dưỡng của một người cho nhiều người, nhiều người cho một người, cấp dưỡng trong từng quan hệ hôn nhân và gia đình; mức cấp dưỡng; phương thức cấp dưỡng; chấm dứt cấp dưỡng; người có quyền yêu cầu về cấp dưỡng.
Chương VIII. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (gồm 10 điều, từ Điều 121 đến Điều 130); Chương này quy định về nguyên tắc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên; nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật và áp dụng pháp luật trong một số quan hệ cụ thể về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Chương IX. Điều khoản thi hành (gồm 3 điều, từ Điều 131 đến Điều 133), Chương này quy định về điều khoản thi hành, bao gồm điều khoản chuyển tiếp, hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành.
2. Những điểm mới cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2.1. Chương I. Những quy định chung
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
a) Sửa đổi quy định về nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh tại Điều 1 của Luật HN-GĐ năm 2000 theo hướng Luật HN-GĐ quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình;
b) Sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình (Điều 2);
c) Bổ sung quy định giải thích một số từ ngữ để bảo đảm sự thống nhất trong xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình, như: “tập quán về hôn nhân và gia đình”, “chung sống như vợ chồng”, “yêu sách của cải trong kết hôn”, “ly hôn giả tạo”, “người thân thích”, “thành viên gia đình”, “nhu cầu thiết yếu”, “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”... (Điều 3);
d) Quy định cụ thể thẩm quyền của Chính phủ trong thống nhất quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình. Các bộ, cơ quan ngang bộ thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo sự phân công của Chính phủ. Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác thực hiện quản lý nhà nước về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật (Điều 4);
e) Bổ sung các hành vi bị cấm, để vừa tạo căn cứ pháp lý giải quyết các hành vi phát sinh trong thực tiễn, vừa đồng bộ với các luật có liên quan, như: Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật bình đẳng giới…. Trong đó có các hành vi: cản trở kết hôn; yêu sách của cải trong việc kết hôn; mang thai hộ vì mục đích thương mại, mua bán trẻ em; bạo lực gia đình; mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi... (khoản 2 Điều 5);
f) Sửa đổi quy định về áp dụng tập quán để tạo cơ sở pháp lý giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình khi pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận. Đồng thời, để bảo đảm linh hoạt trong điều chỉnh pháp luật, Luật cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết về vấn đề này (Điều 7).
2.2. Chương II. Kết hôn
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
a) Quy định điều kiện kết hôn theo hướng là những điều kiện có hiệu lực của việc kết hôn (chủ thể, ý chí, không vi phạm điều cấm). Trong đó, tuổi kết hôn kế thừa luật hiện hành nhưng tính theo nguyên tắc tròn đủ. Không cấm việc kết hôn giữa những người cùng giới tính, nhưng cũng không thừa nhận hôn nhân của họ (Điều 8);
b) Quy định cụ thể hơn về hủy kết hôn trái pháp luật. Theo đó, tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo luật định và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Để quy định này đi vào cuộc sống, Luật giao cho Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết nội dung này (Điều 11);
c) Bổ sung quy định về xử lý việc đăng ký kết hôn không đúng thẩm quyền, theo đó, khi có yêu cầu, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch, yêu cầu hai bên thực hiện lại việc đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ ngày đăng ký kết hôn trước (Điều 13);
d) Bổ sung quy định về giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn (Điều 14, Điều 15 và Điều 16), theo đó:
- Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì giữa họ không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng;
- Quyền, nghĩa vụ đối với con được giải quyết theo quy định chung của Luật hôn nhân và gia đình về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con;
- Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập;
- Pháp luật khuyến khích nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Trường hợp này nếu có đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân được xác lập kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.
2.3. Chương III. Quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về quyền, nghĩa vụ về nhân thân và đại diện giữa vợ và chồng
a) Quy định cụ thể hơn vợ, chồng bình đẳng trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan; Quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan được tôn trọng và bảo vệ (Điều 17);
b) Bổ sung quy định, vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác (Điều 19);
c) Bổ sung quy định, trường hợp một bên vợ, chồng mất năng lực hành vi dân sự mà bên kia có yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn thì căn cứ vào quy định về giám hộ trong Bộ luật dân sự, Tòa án chỉ định người khác đại diện cho người bị mất năng lực hành vi dân sự để giải quyết việc ly hôn (Điều 24);
d) Bổ sung quy định, trường hợp vợ, chồng kinh doanh chung thì người trực tiếp kinh doanh là người đại diện cho bên kia trong quan hệ kinh doanh đó, trừ trường hợp trước khi tham gia quan hệ kinh doanh, vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc Luật hôn nhân và gia đình, luật liên quan có quy định khác (Điều 25);
e) Bổ sung quy định, trường hợp vợ chồng có thỏa thuận bằng văn bản về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó (Điều 25 và Điều 36);
f) Bổ sung quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng. Trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi theo quy định của pháp luật (Điều 26);
g) Quy định cụ thể vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện theo quy định tại Luật HNGĐ về đại diện hoặc đối với các nghĩa vụ chung của vợ chồng, ví dụ: nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình… (Điều 27);
Thứ hai, về chế độ tài sản của vợ chồng:
a) Bổ sung quy định về các nguyên tắc chung trong áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng ( từ Điều 28 đến Điều 32), trong đó:
- Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận;
- Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập;
- Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
- Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
- Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên;
- Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng;
- Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình;
Ngoài các nguyên tắc chung trên, Luật cũng giao cho Chính phủ quy định chi tiết về chế độ tài sản của vợ chồng để bảo đảm linh hoạt trong điều chỉnh pháp luật và kịp thời đưa quy định của Luật vào cuộc sống (Điều 28).
b) Sửa đổi, bổ sung một số quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định ( từ Điều 33 đến Điều 46), cụ thể:
- Đối với tài sản chung của vợ chồng:
+ Bổ sung quy định hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng;
+ Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác;
+ Việc định đoạt tài sản chung phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng nếu đối tượng của giao dịch là bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản đang là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình;
+ Trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên đưa tài sản chung vào kinh doanh thì người này có quyền tự mình thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung đó. Thỏa thuận này phải lập thành văn bản.
+ Quy định cụ thể các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, như: nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm; nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình; nhĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường…;
+ Quy định cụ thể vợ, chồng hoặc hai vợ chồng có quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, nếu việc chia tài sản không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình hoặc không nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng; nghĩa vụ bồi thường thiệt hại; nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản; nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức; nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước; nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan;
+ Quy định cụ thể hơn thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng. Việc chia tài sản chung không làm thay đổi quyền, nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.
- Đối với tài sản riêng của vợ chồng:
+ Quy định cụ thể tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung;
+ Quy định cụ thể nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng, như: nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn; nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình; nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng…;
+ Nghĩa vụ liên quan đến tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung được thực hiện bằng tài sản chung, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
c) Bổ sung chế độ tài sản theo thỏa thuận (từ Điều 47 đến Điều 50), cụ thể:
- Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận có hiệu lực kể từ ngày đăng ký kết hôn;
- Nội dung của chế độ tài sản theo thỏa thuận do vợ chồng quyết định, nhưng thỏa thuận cần có những nội dung cơ bản sau: tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; nội dung khác có liên quan. Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật hôn nhân và gia đình, quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định;
- Vợ chồng có quyền sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản. Thỏa thuận về sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản cũng phải được công chứng, chứng thực;
- Quy định cụ thể các trường hợp thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu.
2.4. Chương IV. Chấm dứt hôn nhân
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
a) Ly hôn (từ Điều 51 đến Điều 64)
- Bổ sung quy định, cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác. Trường hợp này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia;
- Quy định cụ thể hơn chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi;
- Quy định cụ thể hơn căn cứ giải quyết ly hôn khi vợ, chồng có yêu cầu theo hướng nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được;
- Quy định cụ thể hơn quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
- Bổ sung quy định việc chia tài sản khi ly hôn căn cứ lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng; quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác;
- Quy định cụ thể hơn về trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;
- Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
- Bổ sung quy định vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.
- Bổ sung quy định, trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng việc chia tài sản khi ly hôn theo luật định;
- Quy định cụ thể thời điểm quan hệ hôn nhân chấm dứt kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật (Khoản 1 Điều 57).
- Bổ sung quy định, hôn nhân chấm dứt kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố vợ hoặc chồng là đã chết thì thời điểm hôn nhân chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án (Điều 65);
- Bổ sung quy định, cụ thể giải quyết tài sản của vợ chồng trường hợp một bên chết; quyền, nghĩa vụ nhân thân, tài sản của vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà trở về (Điều 67).
2.5. Chương V. Quan hệ giữa cha mẹ và con
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm thay đổi sau đây:
a) Bổ sung nguyên tắc bảo vệ quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con
- Quy định con sinh ra không phụ thuộc vào tình trạng hôn nhân của cha mẹ đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với cha mẹ của mình được quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
- Quy định mọi thỏa thuận của cha mẹ, con liên quan đến quan hệ nhân thân, tài sản không được làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
b) Quy định cụ thể hơn về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ, con phù hợp hơn với thực tế đời sống gia đình Việt Nam, đồng bộ với pháp luật có liên quan, như:
- Quy định cha mẹ không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội;
- Quy định con chưa thành niên tham gia công việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và không trái với quy định của pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Con đã thành niên có quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, nơi cư trú, học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mình. Khi sống cùng với cha mẹ, con có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động, sản xuất, tạo thu nhập nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình; đóng góp thu nhập vào việc đáp ứng nhu cầu của gia đình phù hợp với khả năng của mình. Con được hưởng quyền về tài sản tương xứng với công sức đóng góp vào tài sản của gia đình;
- Quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi, trong đó, quyền, nghĩa vụ giữa cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ được khôi phục kể từ thời điểm quan hệ nuôi con nuôi chấm dứt. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ không còn hoặc không có đủ điều kiện để nuôi con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì Tòa án giải quyết việc chấm dứt nuôi con nuôi và chỉ định người giám hộ cho con theo quy định của Bộ luật dân sự;
- Trường hợp con dâu, con rể sống chung với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì giữa các bên có các quyền, nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau;
- Quy định cụ thể hơn quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con trường hợp cha mẹ ly hôn, hạn chế quyền (giao con, nghĩa vụ cấp dưỡng, thay đổi việc nuôi…).
c) Sửa đổi, bổ sung quy định về xác định cha, mẹ, con (từ Điều 88 đến Điều 102)
- Quy định cụ thể hơn về xác định con chung của vợ chồng, quyền nhận con của cha, mẹ; xác định cha, mẹ, con trường hợp người có yếu cầu chết; xác định cha, mẹ, con trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong đó, quy định cụ thể:
+ Người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định về xác định con chung của vợ chồng;
+ Trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra;
+ Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra.
- Quy định cụ thể hơn về xác định con chung của vợ chồng. Bổ sung quy định về quyền nhận con của cha, mẹ; xác định cha, mẹ, con trường hợp người có yêu cầu chết; xác định cha, mẹ, con trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong đó, quy định cụ thể:
+ Người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định về xác định con chung của vợ chồng;
+ Trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra;
+ Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra;
+ Con sinh ra trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.
- Bổ sung chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo với những nội dung cơ bản sau:
+ Quy định các điều kiện pháp lý chặt chẽ để công nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, bao gồm:
(1) Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên và được lập thành văn bản. Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng. Trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có giá trị pháp lý. Trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này;
(2) Vợ chồng có quyền nhờ người mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây: (i) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; (ii) Vợ chồng đang không có con chung; (iii) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
(3) Người được nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện sau đây: (i) Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ; (ii) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần; (iii) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ; (iiii) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng; (iiiii) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
(4) Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được trái với quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Bên cạnh đó, để bảo đảm cụ thể hỏa các điều kiện về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo vào cuộc sống, Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết vấn đề này.
+ Quy định cụ thể nội dung thỏa thuận về mang thai hộ:
(i) Thông tin đầy đủ các thông tin liên quan đến tuân thủ của các bên về điều kiện mang thai hộ về bên nhờ mang thai hộ theo luật định;
(ii) Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo luật định về mang thai hộ;
(iii) Việc giải quyết hậu quả trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
(iiii) Trách nhiệm dân sự trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận;
+ Quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ:
(i) Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ;
(ii) Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế;
(iii) Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình;
(iiii) Bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
(iiiiii) Trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con.
+ Quy định cụ thể quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ:
(i) Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế;
(ii) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi;
(iii) Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ;
(iiii) Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và luật khác có liên quan;
(iiiii) Trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con.
+ Quy định thể về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ; thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con; người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con.
2.6. Chương VI. Quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
a) Quy định cụ thể, trường hợp sống chung thì các thành viên gia đình có nghĩa vụ tham gia công việc gia đình, lao động tạo thu nhập; đóng góp công sức, tiền hoặc tài sản khác để duy trì đời sống chung của gia đình phù hợp với khả năng thực tế của mình;
b) Bổ sung quy định, cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột có quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng nhau trường hợp người cần được nuôi dưỡng không còn cha, mẹ, con; anh, chị, em ruột; ông bà, cháu nội, ngoại hoặc còn nhưng những người này không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
2.7. Chương VII. Cấp dưỡng
Về cơ bản các quy định ở Chương này được kế thừa từ các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Ngoài ra, Luật cũng đã bổ sung quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột. Theo đó: Cô, dì, chú, cậu, bác ruột không sống chung với cháu ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này. Cháu đã thành niên không sống chung với cô, dì, chú, cậu, bác ruột có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cô, dì, chú, cậu, bác ruột trường hợp người cần được cấp dưỡng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người khác cấp dưỡng theo quy định của Luật này.
2.8. Chương VIII. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Chương này có những điểm sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
a) Để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài và để cụ thể hóa, bảo đảm thực hiện quy định về các hành vi bị cấm trong hôn nhân và gia đình, Luật giao cho Chính phủ quy định chi tiết việc giải quyết quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài về vấn đề này;
b) Quy định cụ thể, về hợp pháp hoá lãnh sự giấy tờ, tài liệu về hôn nhân và gia đình, theo đó, giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài lập, cấp hoặc xác nhận để sử dụng giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình thì phải được hợp pháp hoá lãnh sự, trừ trường hợp được miễn hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà CHXHCNVN là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại;
c) Quy định cụ thể việc công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài có yêu cầu thi hành tại Việt Nam được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Chính phủ quy định việc ghi vào sổ hộ tịch các việc về hôn nhân và gia đình theo bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại VN hoặc không có đơn yêu cầu không công nhận tại Việt Nam; quyết định về hôn nhân và gia đình của cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài;
d) Bổ sung quy định về áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận; giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài.
2.9. Chương IX. Điều khoản thi hành
- Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Luật hôn nhân và gia đình số 22/2000/QH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực;
- Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời điểm xác lập để giải quyết;
- Đối với vụ việc về hôn nhân và gia đình do Tòa án thụ lý trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa giải quyết thì áp dụng thủ tục theo quy định của Luật này;
- Không áp dụng Luật này để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với vụ việc mà Tòa án đã giải quyết theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình trước ngày Luật này có hiệu lực.
Trên đây là một số nội dung tìm hiểu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, là tài liệu tham khảo cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên tham khảo trong quá trình tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp luật nhằm góp phần nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân giúp cho công tác chấp hành pháp luật đạt hiệu quả cùng thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa./.
Lâm Anh |
Nguồn tin: Tổng hợp |
File đính kèm |