THÔNG TIN PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

SỞ NGOẠI VỤ
   

TÌM HIỂU LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ NĂM 2024

Ngày tạo:  20/05/2025 17:09:55
Ngày 27/11/2024, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế số 51/2024/QH15, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2025.

Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2024 sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến: nguyên tắc bảo hiểm y tế; trách nhiệm của Bộ Y tế về bảo hiểm y tế; trách nhiệm của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an; trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp về bảo hiểm y tế; cơ quan thực hiện bảo hiểm y tế; kiểm toán quỹ bảo hiểm y tế; các hành vi bị nghiêm cấm; đối tượng tham gia bảo hiểm y tế; mức đóng và trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế; tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp làm căn cứ đóng bảo hiểm y tế; phương thức đóng bảo hiểm y tế; thẻ bảo hiểm y tế; cấp thẻ bảo hiểm y tế; phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế ...

I. Về sự cần thiết ban hành Luật 

Sau 16 năm triển khai thực hiện, Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 đã bộc lộ các yếu tố không còn phù hợp, cụ thể như:

1. Một số quy định chưa thống nhất, đồng bộ giữa các Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Việc làm

- Luật Bảo hiểm xã hội (Điều 2) quy định đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là người lao động có hợp đồng lao động từ 01 tháng trở lên; Luật Bảo hiểm y tế quy định đối tượng đóng bảo hiểm y tế có hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên; Luật Việc làm (Điều 43) quy định đối tượng đóng bảo hiểm thất nghiệp có hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên.

- Về xác định hợp đồng lao động làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp: Luật Bảo hiểm xã hội (khoản 4 Điều 85) quy định: người lao động theo đối tượng quy định mà giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động thì chỉ đóng bảo hiểm xã hội đối với hợp đồng lao động giao kết đầu tiên; Luật Việc làm (điểm c khoản 1 Điều 43): Trong trường hợp người lao động giao kết và đang thực hiện nhiều hợp đồng lao động thì người lao động và người sử dụng lao động của hợp đồng lao động giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp; Luật Bảo hiểm y tế (Điều 13) quy định: Trường hợp đối tượng người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thêm một hoặc nhiều hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên thì bảo hiểm y tế theo hợp đồng lao động có mức tiền lương cao nhất.

- Về tính lãi phạt chậm đóng, quy định chưa thống nhất tại các Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế: Luật Bảo hiểm xã hội (khoản 3 Điều 122) quy định “Trường hợp trốn đóng, chậm đóng, chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp từ 30 ngày trở lên, số tiền lãi phải thu bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng”; Luật Bảo hiểm y tế (điểm a khoản 3 Điều 49) quy định “Trường hợp chậm đóng bảo hiểm y tế từ 30 ngày trở lên, số tiền lãi phải thu bằng 02 lần mức lãi suất liên ngân hàng tính trên số tiền, thời gian chậm đóng..”.

- Khoản 2 Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế quy định đối tượng người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hàng tháng do tổ chức bảo hiểm xã hội đóng, tuy nhiên theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 không quy định quỹ bảo hiểm xã hội chi đóng bảo hiểm y tế cho người trên 80 tuổi hưởng chế độ tuất. Do đó, khoản 17 Điều 3 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định Đối tượng người từ đủ 80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hàng tháng do ngân sách nhà nước đóng dẫn tới khó khăn trong việc tổ chức thực hiện (từ ngày 01 tháng 01 năm 2019 cơ quan bảo hiểm xã hội tổ chức thực hiện theo Nghị định 146/2018/NĐ-CP, tuy nhiên Sở Tài chính một số địa phương từ chối quyết toán phần kinh phí này với lý do nội dung này trái với Luật Bảo hiểm y tế).

2. Một số quy định trong Luật Bảo hiểm y tế chưa cụ thể, rõ ràng

- Luật Bảo hiểm y tế quy định bảo hiểm y tế là hình thức bắt buộc đối với các đối tượng tham gia, nhưng chưa quy định chế tài cụ thể đối với một số nhóm đối tượng không tham gia bảo hiểm y tế (học sinh, sinh viên; hộ gia đình…).

- Quy định người lao động trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau từ 14 ngày trở lên trong tháng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội thì không phải đóng bảo hiểm y tế nhưng vẫn được hưởng quyền lợi bảo hiểm y tế là không công bằng đối với các nhóm đối tượng khác (khoản 1 Điều 7 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP).

- Về thu tiền đóng của trẻ em dưới 6 tuổi: (Từ năm 2015 đến 30 tháng 11 năm 2018) Tại điểm c khoản 1 Điều 5 Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC quy định: “Đối với trẻ em dưới 6 tuổi, thời hạn sử dụng ghi trên thẻ bảo hiểm y tế kể từ ngày sinh đến ngày trẻ đủ 72 tháng tuổi. Trường hợp trẻ đủ 72 tháng tuổi mà chưa đến kỳ nhập học thì thời hạn sử dụng ghi trên thẻ bảo hiểm y tế đến ngày 30 tháng 9 của năm đó”. Điểm b khoản 1 Điều 10 số Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17 tháng 10 năm 2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế cũng quy định rõ “Số tiền đóng bảo hiểm y tế đối với trẻ em dưới 6 tuổi được tính từ ngày sinh đến ngày trẻ đủ 72 tháng tuổi”. Tuy nhiên, ở một số địa phương Sở Tài chính không chấp nhận thanh toán số tiền đóng bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi từ ngày sinh đến ngày cơ quan có thẩm quyền lập danh sách, dẫn tới vướng mắc quyết toán số tiền truy thu bảo hiểm y tế cho thời gian từ ngày sinh tới ngày cơ quan bảo hiểm xã hội nhận danh sách giai đoạn từ 01 tháng 01 năm 2015 đến 30 tháng 11 năm 2018 (ngày Nghị định 146/2018/NĐ-CP có hiệu lực). Ngày 23 tháng 9 năm 2019, Bộ Tài chính có Công văn số 1110/BTC-NSNN về việc đề nghị xử lý số tiền ngân sách nhà nước hỗ trợ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, theo đó Bộ Tài chính đề nghị bảo hiểm xã hội Việt Nam phối hợp với Uỷ ban nhân dân các tỉnh rà soát, xác định nhu cầu kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng trẻ em dưới 6 tuổi từ năm 2015-2018, trên cơ sở đó xác định phần kinh phí còn thiếu và đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh chuyển đủ kinh phí vào quỹ bảo hiểm y tế theo quy định.

- Gói dịch vụ y tế cơ bản: Quy định về gói dịch vụ y tế cơ bản do quỹ bảo hiểm y tế chi trả không rõ về khái niệm, không thể hiện tính chất của gói dịch vụ y tế cơ bản phải đặt trong sự cân đối về phạm vi quyền lợi và khả năng chi trả của quỹ bảo hiểm y tế. Trong khi đó, Luật Bảo hiểm y tế vẫn có các quy định về phạm vi quyền lợi và mức hưởng bảo hiểm y tế; đồng thời quy định Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành danh mục, tỷ lệ, điều kiện thanh toán đối với thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật y tế thuộc phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế, không quy định rõ về mức thanh toán bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, đối với một số thuốc, vật tư y tế có giải giá rộng, khó quy định tỷ lệ thanh toán mà chỉ có thể quy định mức thanh toán cụ thể.

- Quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm y tế: Quỹ bảo hiểm y tế được quy định là quản lý tập trung, thống nhất trên toàn quốc (một quỹ duy nhất), nhưng đồng thời Luật cũng quy định về cách thức xử lý khi có kết dư hoặc thiếu hụt quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (tính trên thực tế số thu bảo hiểm y tế) tại các tỉnh, thành phố. Điều này có thể hiểu là chưa đồng bộ, nhất quán trong cách thể hiện nội dung văn bản luật. Đồng thời, quy định này cũng dẫn đến cách thức điều tiết nguồn quỹ bảo hiểm y tế và thanh toán chi phí bị thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh, thậm chí là khác nhau theo từng tỉnh, từng cơ sở khám chữa bệnh.

- Tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình: Việc quy định hộ gia đình là “một nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế” chưa tương thích với việc phân nhóm đối tượng tham gia theo “trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế”. Đồng thời, quy định đối tượng tham gia theo hộ gia đình dựa trên danh sách thành viên trong sổ hộ khẩu không phản ánh mối quan hệ giữa các thành viên và trách nhiệm của thành viên hộ gia đình trong thực hiện bảo hiểm y tế. Mức đóng và việc giảm trừ mức đóng cho các thành viên hộ gia đình khi cùng tham gia bảo hiểm y tế chưa thực sự công bằng so với các nhóm đối tượng khác, trong đó có học sinh, sinh viên. Cụ thể, đối tượng tham gia theo hộ gia đình chỉ áp dụng mức đóng như các đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ tính theo mức lương cơ sở như đối tượng thuộc hộ nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và còn được giảm trừ mức đóng từ thành viên thứ hai trở đi.

Việc tham gia bảo hiểm y tế của đối tượng học sinh, sinh viên chưa bảo đảm linh hoạt, chưa bảo đảm quyền lợi đối với trường hợp học sinh, sinh viên đồng thời là thành viên của hộ gia đình dẫn đến mức đóng của học sinh, sinh viên cao hơn khi so sánh với mức đóng của họ khi tham gia với tư cách là đối tượng thành viên hộ gia đình.

- Bảo hiểm y tế đối với người nước ngoài: Luật Bảo hiểm y tế quy định phạm vi điều chỉnh có “cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến bảo hiểm y tế”. Quy định này chưa cụ thể, không rõ ràng về đối tượng, mức đóng, cách thức đóng bảo hiểm y tế dẫn đến khó khăn trong thực hiện: Người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam; người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam, trẻ em có mẹ là người Việt Nam nhưng quốc tịch nước ngoài; đối tượng là người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam nhưng hưởng lương tại nước ngoài; người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam; trẻ em có mẹ là người Việt Nam nhưng quốc tịch nước ngoài; đối tượng học sinh, sinh viên có bố hoặc mẹ là người Việt Nam, có quốc tịch nước ngoài, theo học tại các cơ sở giáo dục công lập. người lao động nước ngoài đang làm việc tại công ty, đã đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ luật Lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 143/2018/NĐ-CP, nhưng Luật Bảo hiểm y tế không quy định đối với trường hợp này.

- Tên gọi cơ sở khám chữa bệnh trong Luật Bảo hiểm y tế chưa bao phủ đầy đủ các loại hình cơ sở khám chữa bệnh hiện nay, dẫn đến việc phải xác định “tuyến tương đương” hoặc khó khăn trong định danh các cơ sở y tế không có tên gọi là “cơ sở khám chữa bệnh”, “bệnh viện”, đặc biệt là cơ sở khám chữa bệnh thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.

3. Luật Bảo hiểm y tế thiếu các khái niệm, các quy định liên quan đến quyền và trách nhiệm của cơ quan liên quan

- Giám định bảo hiểm y tế: Khái niệm giám định trong Luật Bảo hiểm y tế hiện hành còn rộng so với bản chất của công tác giám định là tập trung vào kiểm soát chi phí, kiểm soát thanh toán. Là hoạt động đặc trưng trong lĩnh vực bảo hiểm y tế, có ảnh hưởng đến quyền lợi người bệnh, cơ sở khám chữa bệnh, người hành nghề, chất lượng dịch vụ y tế và cả quỹ bảo hiểm y tế nhưng Luật Bảo hiểm y tế hiện hành thiếu các quy định về nguyên tắc, cách thức, điều kiện thực hiện giám định, phương thức xử lý trong trường hợp các bên không thống nhất kết quả giám định; chưa quy định đầy đủ về trách nhiệm, vai trò của cơ quan quản lý nhà nước về y tế và bảo hiểm y tế là Bộ Y tế đối với công tác này; chưa cụ thể, rõ ràng về quyền và trách nhiệm của cán bộ giám định bảo hiểm y tế, tiêu chuẩn chức danh của người làm giám định bảo hiểm y tế…

- Hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế: Chưa quy định tính chất hợp đồng, loại hình hợp đồng, quy trình xử lý khi có tranh chấp. Chưa có quy định cụ thể trường hợp tạm dừng hợp đồng khám chữa bệnh giữa cơ quan bảo hiểm xã hội và cơ sở khám chữa bệnh.

- Công nghệ thông tin: Không có quy định cụ thể về thực hiện, trách nhiệm của các cơ quan trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong bảo hiểm y tế.

- Tuyến chuyên môn kỹ thuật: tồn tại các quy định song hành về tuyến chuyên môn kỹ thuật theo Thông tư số 43/2013/T-BYT và tuyến khám chữa bệnh tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại Thông tư số 40/2015/TT-BYT; thực hiện theo Luật Khám chữa bệnh năm 2009, Thông tư số 14/2014/TT-BYT và Thông tư số 40/2015/TT-BYT ngày 16 tháng 11 năm 2015 của Bộ Y tế, tuy nhiên, Luật Khám chữa bệnh số 15/2023/QH15 đã thay đổi thành quy định về cấp chuyên môn kỹ thuật.

- Chưa có văn bản hướng dẫn việc thực hiện bảo hiểm y tế (đối tượng, mức đóng, phương thức đóng, quyền lợi) cho một số đối tượng là người lao động tại các đơn vị, doanh nghiệp đã phá sản, chủ doanh nghiệp là người nước ngoài bỏ trốn về nước và những trường hợp chậm đóng, trốn đóng khác không có khả năng thu hồi, gây nhiều khó khăn, vướng mắc khi giải quyết các chế độ, quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động.

4. Thiếu chế tài hoặc các chế tài chưa đủ mạnh xử lý các trường hợp vi phạm

- Đối với trường hợp tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm bảo hiểm y tế, Luật Bảo hiểm y tế hiện hành còn thiếu các quy định xử lý các trường hợp vi phạm hoặc đã có quy định nhưng chưa đủ mạnh.

- Luật Bảo hiểm y tế quy định tham gia bảo hiểm y tế là bắt buộc nhưng hiện nay không có chế tài cụ thể đối với cá nhân không tham gia bảo hiểm y tế.

- Tình trạng trốn đóng, chậm đóng bảo hiểm y tế xảy ra ở một số các địa phương, doanh nghiệp, mặc dù đã có quy định về việc xử lý các hành vì này và cơ quan bảo hiểm xã hội có chức năng thanh tra đóng bảo hiểm y tế.

- Các trường hợp không thống nhất về số liệu về chi phí, chậm thanh quyết toán, tạm ứng không đúng quy định chưa có quy định về cách thức giải quyết, chế tài xử lý.

Từ những bất cập trên thì việc  sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế là cần thiết.

II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT

1. Mở rộng thêm nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế

- Bổ sung các đối tượng đã được luật khác quy định bao gồm người tham gia lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, người cao tuổi từ 75 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, người từ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ cận nghèo đang hưởng trợ cấp tuất hàng tháng.

- Bổ sung đối tượng nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản nhằm động viên, khích lệ và có chính sách thoả đáng với đối tượng chăm sóc sức khỏe nhân dân ở vùng sâu, vùng xa.

- Giao Chính phủ quy định các đối tượng phát sinh khác sau khi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, điều này cho phép linh hoạt điều chỉnh đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo tình hình thực tế.

Ngoài ra, quy định mới trong Luật cũng có có sự điều chỉnh trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế, phương thức, thời hạn đóng, trách nhiệm lập danh sách đóng bảo hiểm y tế, thời hạn thẻ bảo hiểm y tế có giá trị sử dụng để để phù hợp với việc sửa các đối tượng tham gia bảo hiểm y tế nêu trên và đồng bộ với các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội hiện hành và luật khác có liên quan.

2. Quy định mới về đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu

- Quy định về đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu. Thủ tục đăng ký bệnh nơi khám chữa bệnh ban đầu đối với người tham gia bảo hiểm y tế đã được đơn giản hóa và thuận tiện hơn trước. Luật mới cũng quy định rõ về quyền của người có thẻ bảo hiểm y tế trong việc đăng ký khám nơi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu tại cơ sở y tế khám chữa bệnh cấp ban đầu và cấp cơ bản.

- Chuyển người bệnh giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo cấp chuyên môn kỹ thuật của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023. Quá trình chuyển viện được quy định rõ ràng, đảm bảo người bệnh được tiếp cận với dịch vụ quản lý và chăm sóc y tế tốt nhất ngay cả với các bệnh nhân mắc bệnh mãn tính.

3. Quy định về mức hưởng bảo hiểm y tế khi thông cấp

Quy định mức hưởng bảo hiểm y tế khi thực hiện thông cấp khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo hướng không phân biệt địa giới hành chính theo tỉnh nhằm đảm bảo giữ ổn định tỷ lệ mức hưởng bảo hiểm y tế theo quy định của Luật hiện hành và mở rộng với một số trường hợp. Theo đó người tham gia bảo hiểm y tế sẽ được hưởng:

- 100% mức hưởng bảo hiểm y tế khi đi khám chữa bệnh tại cơ sở y tế là nơi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cấp ban đầu trong toàn quốc

- 100% mức hưởng khi đi khám chữa bệnh nội trú tại cơ sở y tế khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cấp cơ bản trên toàn quốc.

- 100% mức hưởng khi khám chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cấp cơ bản, cấp chuyên sâu mà trước ngày 01 tháng 01 năm 2025 đã được cơ quan có thẩm quyền xác định là tuyến huyện.

Đặc biệt, trong một số trường hợp mà người bệnh mắc các bệnh hiếm, bệnh hiểm nghèo sẽ được thông tuyến lên thẳng cơ sở khám chữa bệnh cấp chuyên sâu.

Ngoài ra, Luật Bảo hiểm y tế mới cũng đã mở rộng một số phạm vi quyền lợi cho người có thẻ bảo hiểm y tế khi điều trị lác, tật khúc xạ của mắt cho người dưới 18 tuổi.

Với mức hưởng mới này người bệnh có thẻ bảo hiểm y tế sẽ được hưởng nhiều quyền lợi bảo hiểm y tế hơn so với trước đây và điều này cũng sẽ giúp họ có cơ hội được bảo hiểm y tế hỗ trợ tối đa khi đi khám chữa bệnh theo quy định.

4. Quy định về điều chỉnh tỷ lệ chi cho hoạt động bảo hiểm y tế từ số tiền đóng bảo hiểm y tế

Luật Bảo hiểm y tế mới quy định tăng mức phân bổ từ nguồn thu bảo hiểm y tế để chi cho hoạt động khám chữa bệnh bảo hiểm y tế lên 92%, giảm số tiền dành cho quỹ dự phòng, tổ chức hoạt động quỹ bảo hiểm y tế xuống 8% trong đó dành tối thiểu 4% số tiền đóng bảo hiểm y tế cho quỹ dự phòng, quy định rõ thời hạn thông báo kết quả giám định chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

5. Bổ sung cơ chế thanh toán thuốc, thiết bị y tế

Luật Bảo hiểm y tế mới quy định bổ sung thêm cơ chế thanh toán thuốc, thiết bị y tế điều chuyển giữa các cơ sở khám chữa bệnh và thanh toán chi phí dịch vụ cận lâm sàng được chuyển đến cơ sở khác trong trường hợp thiếu thuốc, thiết bị y tế và quy định cơ chế để quỹ bảo hiểm y tế thanh toán cho các trường hợp này.

6. Sửa đổi hình thức xử lý khi chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm y tế

Luật mới đã bổ sung quy định cụ thể về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm y tế và các biện pháp cụ thể để xử lý đối với các trường hợp chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm y tế (theo Điều 48a, 48b Luật Bảo hiểm y tế). Điều này nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất với quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội năm 2024.

Đồng thời, quy định cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm y tế mà không đóng hoặc đóng không đầy đủ theo quy định của pháp luật thì sẽ bị xử lý như sau:

- Bắt buộc đóng đủ số tiền chậm đóng, trốn đóng; Nộp số tiền bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền bảo hiểm y tế chậm đóng, trốn đóng và số ngày chậm đóng, trốn đóng vào quỹ bảo hiểm y tế.

- Xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

- Không xem xét danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng.

Ngoài ra, tại khoản 4 Điều 49 Luật Bảo hiểm y tế còn quy định cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm y tế cho người lao động phải hoàn trả toàn bộ chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi quyền lợi, mức hưởng bảo hiểm y tế mà người lao động đã chi trả trong thời gian chưa có thẻ bảo hiểm y tế do chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm y tế.

7. Quy định về trách nhiệm của Bộ Y tế

Luật mới quy định cụ thể rõ hơn về trách nhiệm của Bộ Y tế trong các đầu việc sau:

- Rà soát và cập nhật thường xuyên phác đồ điều trị để bảo đảm thuận tiện trong khám bệnh, chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế.

- Quy định về đánh giá sự hợp lý của việc cung cấp dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.

- Quy định về ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, chia sẻ dữ liệu trong lĩnh vực bảo hiểm y tế, việc liên thông và sử dụng kết quả cận lâm sàng liên thông giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phù hợp yêu cầu chuyên môn và đưa ra giải pháp tăng cường năng lực khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế cho y tế cơ sở,

- Ban hành nguyên tắc, tiêu chí xây dựng danh mục thuốc, thiết bị y tế, dịch vụ y tế thuộc phạm vi chi trả của bảo hiểm y tế để bảo đảm tính quy phạm, minh bạch, công khai.

8. Bổ sung quy định về cấp thẻ bảo hiểm y tế điện tử

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2024 mới giúp định nghĩa rõ hơn về khái niệm thẻ bảo hiểm y tế điện tử, đồng thời có các quy định, hướng dẫn cụ thể quy trình cấp thẻ điện tử cho người tham gia. Đồng thời quy định kiểm toán nhà nước kiểm toán Báo cáo quyết toán chi tổ chức và hoạt động bảo hiểm y tế của cơ quan bảo hiểm xã hội hằng năm để đồng bộ với Luật Bảo hiểm xã hội.

 


Lâm Anh
Nguồn tin: Tổng hợp

File đính kèm
   

Nhập nội dung ý kiến của bạn.
Nhập tên của bạn.
Nhập email của bạn.