THÔNG TIN PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH
   

Tìm hiểu về Luật giá (sửa đổi) năm 2023

Ngày tạo:  31/07/2023 10:51:52
Luật Giá (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2023. và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2024

    I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH VĂN BẢN

    1. Đánh giá thực tiễn thi hành

    a) Kết quả đạt được

    Luật giá số 11/2012/QH13 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 thay thế Pháp lệnh Giá năm 2002 đã góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự kinh tế; Qua đó, tạo khung pháp lý đầy đủ cho công tác quản lý, điều hành giá được thực hiện nhất quán theo cơ chế thị trường theo hướng khuyến khích cạnh tranh về giá, tôn trọng quyền tự định giá của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan chi phối sự hình thành và vận động của giá cả thị trường; đồng thời bảo đảm sự điều tiết của Nhà nước về giá chủ yếu bằng các biện pháp gián tiếp vĩ mô phù hợp với các cam kết quốc tế. Sau 9 năm thực hiện, Luật giá đã đi vào cuộc sống, đạt được nhiều kết quả tích cực như:

    - Một là, Luật giá và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc triển khai thực hiện cơ chế giá thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước. Công tác quản lý, điều tiết giá được thực thi hiệu quả gắn với việc đẩy mạnh triển khai công tác tổng hợp, phân tích, dự báo đã giúp kiểm soát lạm phát theo mục tiêu (liên tiếp trong 8 năm từ 2014 – 2021, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp dưới 4%), góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn vừa qua; đặc biệt trong những giai đoạn giá cả thị trường có biến động lớn do chịu ảnh hưởng từ diễn biến dịch bệnh hoặc bất ổn địa – chính trị thế giới, song công tác quản lý giá vẫn được triển khai quyết liệt, hiệu quả, đảm bảo giữ vững mục tiêu kiểm soát lạm phát.

    - Hai là, các biện pháp điều tiết giá (bình ổn giá, định giá, hiệp thương giá, kê khai giá và niêm yết giá) đã phát huy tác dụng trong thực tiễn, là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết thị trường, cũng như xử lý những vấn đề phát sinh trong thực tiễn, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

- Ba là, danh mục mặt hàng Nhà nước quản lý giá (định giá, bình ổn giá, kê khai giá) thể hiện rõ quan điểm của Nhà nước trong việc quản lý giá theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước.

    - Bốn là, phát triển nghề thẩm định giá nhằm đảm bảo phục vụ nhu cầu của xã hội; hoạt động thẩm định giá Nhà nước đã góp phần quan trọng giúp các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra các quyết định liên quan đến mua, bán tài sản; đảm bảo sử dụng các nguồn lực của Nhà nước một cách hiệu quả.

b) Bên cạnh đó, cũng đã phát sinh những tồn tại, hạn chế trong các quy định tại Luật giá cũng như tại các Luật chuyên ngành có quy định liên quan đến lĩnh vực giá như:

    - Thứ nhất, đối với biện pháp định giá, việc phân công, phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm định giá còn chưa rõ, thiếu đồng bộ với chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực. Một số trường hợp quy định giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện định giá cụ thể là không còn phù hợp với bối cảnh hiện nay, rất khó xác định trách nhiệm của cơ quan, đơn vị tham mưu; Hệ thống phương pháp định giá còn phân tán, chưa quy định rõ việc áp dụng phương pháp định giá chung và phương pháp định giá chuyên ngành; các hình thức định giá cần phải kiện toàn để đáp ứng những phát sinh trong thực tiễn. 

Mặt khác, thực tế khi xây dựng các Luật chuyên ngành đã có những quy định liên quan đến định giá nhà nước dẫn đến sự trùng lặp, chồng chéo (hiện qua rà soát có hơn 20 Luật, Nghị định có các quy định chồng chéo với Luật giá như Luật giao thông đường bộ, Luật nhà ở, Luật thủy lợi, Luật hàng không dân dụng…) như (i) quy định thêm hàng hóa, dịch vụ áp dụng định giá nhà nước ngoài danh mục tại Luật giá;(ii) một số hàng hóa, dịch vụ được quy định bổ sung tại Luật chuyên ngành chưa đảm bảo phù hợp với 03 nguyên tắc xác định danh mục hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá; (iii) thiếu các quy định đồng bộ về hình thức, thẩm quyền định giá khi có quy định bổ sung hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá ngoài danh mục; (iv)chưa có sự thống nhất về quy trình thẩm định, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định giá giữa pháp luật chuyên ngành với Luật giá; (v) chồng chéo trong ban hành phương pháp định giá.

     - Thứ hai, đối với biện pháp bình ổn giá: các quy định về danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá, phạm vi thực hiện và biện pháp bình ổn giá chưa thật sự linh hoạt, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn; nhất là trong bối cảnh cần phải triển khai bình ổn giá trong các bối cảnh khẩn cấp (ví dụ như giá mặt hàng thịt lợn trong giai đoạn 2019 - 2020, các mặt hàng phục vụ phòng, chống dịch trong giai đoạn dịch bệnh Covid - 19).

    - Thứ ba, đối với các biện pháp điều tiết giá khác cũng phát sinh những tồn tại, hạn chế nhất định như công tác hiệp thương giá phát sinh vướng mắc, bất cập về phạm vi áp dụng và giá trị pháp lý của mức giá hiệp thương. Biện pháp kê khai giá cần tiếp tục củng cố khâu tổ chức thực hiện linh hoạt, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cả đối tượng kê khai và tiếp nhận kê khai. Chưa có các quy định cụ thể về công tác kiểm tra chấp hành pháp luật về giá. 

     - Thứ tư, về dịch vụ thẩm định giá, trong thời gian vừa qua đã có hiện tượng phát triển nóng về số lượng các doanh nghiệp thẩm định giá, cụ thể: năm 2015 cả nước mới có 184 doanh nghiệp thẩm định giá nhưng đến đầu năm 2022 đã có gần 300 doanh nghiệp thẩm định giá được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ thẩm định giá và đang hoạt động. Cùng với sự phát triển nóng về số lượng, chất lượng cung cấp dịch vụ thẩm định giá có dấu hiệu suy giảm, một số doanh nghiệp thẩm định giá và thẩm định viên về giá đã có những vi phạm về đạo đức nghề nghiệp .  

Ngoài ra, việc quy định thêm những điều kiện đối với hoạt động thẩm định giá tại các Luật chuyên ngành cũng làm phát sinh thêm những khoản chi phí tuân thủ cho xã hội không cần thiết (như việc quy định về chứng chỉ định giá đất tại Luật đất đai, chứng chỉ về tư vấn xác định giá công nghệ tại Luật chuyển giao công nghệ...). Bên cạnh đó, hoạt động thẩm định giá của Nhà nước hiện cũng chưa rõ ràng trong phạm vi áp dụng, thẩm quyền thực hiện dẫn đến lúng túng trong khâu tổ chức thực hiện. 

    - Thứ năm, công tác tổng hợp, phân tích, dự báo giá cả thị trường chưa có quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động này nên chưa phát huy động được hết hiệu quả.

    2. Cơ sở chính trị và sự cần thiết ban hành Luật

    a) Cơ sở chính trị cho việc xây dựng Luật

- Tại văn kiện Đại hội Đảng XIII đã xác định mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội: 

+ Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ các nguồn lực. Trong đó, thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản.

+ Tại nội dung thứ 2 của định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 đã đặt ra yêu cầu hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu đầu tư, sản xuất kinh doanh. 

+ Một trong các đột phá chiến lược cũng đã đặt ra cần hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 

- Tai Nghị quyết 18 – NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII cũng đặt ra một số nhiệm vụ như:

+ Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục được tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị; 

+ Khẩn trương rà soát, cương quyết sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác giữa các bộ, ngành và các tổ chức trực thuộc các bộ, ngành.

+ Thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn quyền hạn với trách nhiệm;

+ Tiếp tục cải cách hành chính mạnh mẽ, ứng dụng sâu rộng khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin; đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, đô thị thông minh; tổng kết, đánh giá để có giải pháp sử dụng hiệu quả hạ tầng công nghệ thông tin.

    b) Trên cơ sở việc đánh giá chi tiết, Quốc hội đã thống nhất sự cần thiết ban hành Luật giá (sửa đổi) và bổ sung Dự án Luật vào chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2022 với các lý do:

- Hoàn thiện thể chế pháp luật về giá nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tình hình mới.

- Khắc phục những tồn tại hạn chế sau 9 năm thi hành Luật, nhất là sự  chồng chéo, mâu thuẫn giữa Luật giá với các luật chuyên ngành; hạn chế sự phân tán, thiếu tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về giá.

- Đáp ứng các yêu cầu về tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế.

    II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT

    1. Mục đích, yêu cầu xây dựng Luật

- Thể chế hóa đầy đủ, đúng chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước, theo đó Luật giá phải quy định đúng đắn, hợp lý về vai trò quản lý nhà nước; xác định rõ ranh giới, mức độ, phạm vi, biện pháp điều tiết của Nhà nước đối với thị trường trên cơ sở tôn trọng quy luật thị trường, khắc phục những tác động tiêu cực của thị trường, nhưng mặt khác vẫn phải bảo đảm quyền tự định đoạt, tự do kinh doanh của doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới để làm tăng tính cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, tránh can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, nhất là đối tượng yếu thế nhưng không bao cấp.

- Khắc phục những vướng mắc về thể chế, những lỗ hổng chính sách; những bất hợp lý của hệ thống pháp luật đang cản trở quá trình phát triển; tạo sự minh bạch trong quản lý nhà nước về giá, công khai thông tin doanh nghiệp; xác định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, cụ thể, khả thi của Luật này với hệ thống pháp luật, phù hợp với các cam kết quốc tế; đơn giản hóa các thủ tục hành chính.

    2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật

    a) Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chủ trương của Đảng về nguyên tắc quản lý giá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hướng đến thực hiện các mục tiêu hài hòa lợi ích của doanh nghiệp sản xuất, người dân và nhà nước, góp phần kiểm soát lạm phát mục tiêu, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.

    b) Kế thừa, phát huy và hoàn thiện những quy định tại Luật giá và các Luật chuyên ngành có quy định về giá còn phù hợp với thực tiễn. Đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định chưa rõ, còn bất cập, chưa thống nhất. Loại bỏ những quy định không còn phù hợp, chồng chéo, vướng mắc; đồng thời Luật hóa một số quy định tại các văn bản dưới Luật đã ổn định.

    III. BỐ CỤC CỦA LUẬT GIÁ 

Luật giá (sửa đổi) gồm 8 chương, 74 điều, cụ thể như sau:

Chương I. Những quy định chung, gồm 7 điều (từ Điều 1 đến Điều 7).

Chương II. Quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng trong lĩnh vực giá, gồm 4 điều (từ Điều 8 đến Điều 11).

Chương III. Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước về giá, thẩm định giá gồm 6 điều (từ Điều 12 đến Điều 17).

Chương IV. Hoạt động quản lý, điều tiết giá của nhà nước, gồm 17 điều (từ Điều 17 đến Điều 33).

Chương V. Tổng hợp, phân tích, dự báo giá thị trường, cơ sở dữ liệu về giá, gồm 6 điều (từ Điều 34 đến Điều 39).

Chương VI. Thẩm định giá, gồm 27 điều (từ Điều 40 đến Điều 66).

Chương VII. Tranh tra chuyên ngành về giá, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá gồm 7 điều (từ Điều 67 đến Điều 73).

Chương VIII. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (từ Điều 73 đến Điều 74).


Vân Dương

File đính kèm
   

Nhập nội dung ý kiến của bạn.
Nhập tên của bạn.
Nhập email của bạn.