THÔNG TIN PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

ĐOÀN THANH NIÊN CỘNG SẢN HỒ CHÍ MINH TỈNH
   

Tìm hiểu Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2022

Ngày tạo:  19/03/2023 09:06:36
Luật Phòng, chống rửa tiền được Quốc hội khóa XV kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2022. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 3 năm 2023 và tại thời điểm đó Luật Phòng, chống rửa tiền số 07/2012/QH13 sẽ hết hiệu lực thi hành. Luật được Quốc hội ban hành trên các cơ sở về chính trị cũng như cơ sở về thực tiễn và quan điểm chỉ đạo triển khai đầy đủ, rõ ràng và cần thiết.

       Đối với cơ sở chính trị

      Một trong các giải pháp được đưa ra tại Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng là nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng sát với thực tiễn của đất nước và phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về phòng, chống rửa tiền (sau đây gọi là “PCRT”) là một trong những yếu tố then chốt thúc đẩy công tác PCRT nói riêng và phòng, chống tham nhũng nói chung phát triển và hoàn thiện, đặc biệt trong việc điều tra, truy tố và xét xử tội phạm về tham nhũng, rửa tiền. Theo báo cáo đánh giá rủi ro quốc gia của Việt Nam về rửa tiền, tài trợ khủng bố giai đoạn 2012 – 2017, nhóm tội phạm về tham nhũng là nhóm tội phạm nguồn của tội rửa tiền được đánh giá có nguy cơ rửa tiền từ mức “trung bình cao” đến mức “cao”. Do vậy, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền sẽ góp phần đáng kể tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. 

Đồng thời, tại Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT và tài trợ khủng bố giai đoạn 2015 – 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 2112/QĐ-TTg ngày 25/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ (điểm 1 Phần IV Kế hoạch) và Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và tài trợ khủng bố” ban hành kèm theo Quyết định số 89/QĐ-TTg ngày 07/10/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là “Ngân hàng Nhà nước”) chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chỉnh sửa Luật PCRT phù hợp với chuẩn mực quốc tế.

        Đối với cơ sở về thực hiện điều ước quốc tế và cam kết quốc tế

       Về các điều ước quốc tế

      Ngày 18/4/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 605/QĐ-TTg về Phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô và Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

Công ước Palécmô bao gồm nhiều điều khoản về chống tội phạm có tổ chức và yêu cầu những nước đã thông qua Công ước này phải thực hiện các điều khoản của Công ước bằng cách nội luật hóa, bao gồm cả các quy định về PCRT như hình sự hóa đầy đủ tội rửa tiền (Điều 6), xây dựng các biện pháp để phòng ngừa và phát hiện mọi hành vi rửa tiền trao quyền hợp tác và trao đổi thông tin giữa các cơ quan có thẩm quyền (Điều 7), thành lập một đơn vị tình báo tài chính của quốc gia và thúc đẩy hợp tác quốc tế (Điều 7).

      Để triển khai Công ước trên, điểm 2 (a) mục II Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Palécmô đã quy định về nhiệm vụ rà soát để hoàn thiện các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về phòng, chống tội phạm cho phù hợp với Công ước và Nghị định thư, trong đó có Luật PCRT.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã gia nhập Công ước Liên hợp quốc về Chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần (Công ước Viên 1988) vào tháng 11/1997 và phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (Công ước Merida) tháng 8/2009. 

       Công ước Viên chủ yếu đề cập đến các điều khoản để chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật. Mặc dù trong Công ước Viên không sử dụng thuật ngữ rửa tiền nhưng khoản 1 Điều 3 Công ước đã đưa ra định nghĩa về khái niệm này và yêu cầu các nước hình sự hóa hoạt động đó.

Công ước Merida yêu cầu các quốc gia thành viên phải: xây dựng các biện pháp chống rửa tiền (Điều 14); phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do phạm tội mà có (Điều 52); thành lập đơn vị tình báo tài chính có trách nhiệm nhận, phân tích và chuyển giao cho các cơ quan có thẩm quyền báo cáo về các giao dịch tài chính đáng ngờ (Điều 58); hình sự hóa các tội phạm liên quan đến tài sản do phạm tội mà có trong đó có tội tham nhũng (Chương 3), đồng thời có các biện pháp xử lý tội tham nhũng hiệu quả, tăng cường hợp tác quốc tế (Chương 4).

Như vậy, theo yêu cầu của các Công ước nêu trên, các quốc gia thành viên, tham gia hoặc phê chuẩn Công ước đều phải có các biện pháp phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn các hành vi buôn bán bất hợp pháp các chất ma túy và hướng thần, phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia và hành vi tham nhũng, tài trợ khủng bố. Để thực hiện các biện pháp này, các quy định pháp luật về biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố cũng cần được áp dụng có hiệu quả để phòng ngừa, phát hiện các hành vi nêu trên. Do vậy, việc sửa đổi Luật PCRT là một yêu cầu để thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn.

        Về thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam

       Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên Nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về PCRT (APG). Việc gia nhập APG khẳng định cam kết và nỗ lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới trong việc xây dựng một thể chế tài chính lành mạnh và đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm rửa tiền/tài trợ khủng bố/tài trợ phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt (RT/TTKB/TTPBVKHDHL) nói riêng. Điều này góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở để Việt Nam tham gia các hoạt động hợp tác song phương, đa phương thông qua các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trên thực tế, việc Việt Nam trở thành thành viên của APG đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình Việt Nam tham gia các diễn đàn của Liên Hiệp quốc như hoạt động của Văn phòng phòng chống tội phạm và ma túy, gia nhập và triển khai các Công ước và Nghị quyết có liên quan. Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tạo điều kiện thuận lợi trong việc nhận được các chính sách ưu đãi của Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Châu Á… cũng như sự hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế khác cho sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia. Việc gia nhập APG cũng tạo điều kiện cho các thành phần trong nền kinh tế mở rộng phạm vi hoạt động ở nước ngoài và hợp tác với các tổ chức quốc tế. 

      Ngoài ra, với tư cách thành viên của APG, Việt Nam đã được hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL thông qua các chương trình hỗ trợ phù hợp dành cho các nước thành viên của APG để nâng cao việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế. Đồng thời, hàng năm, APG xây dựng các mô hình để xem xét các xu hướng RT/TTKB/TTPBVKHDHL mới nổi ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương để cung cấp cho các thành viên nhằm phòng, chống tội phạm một cách hiệu quả hơn. Trước yêu cầu về công tác PCRT trong hình hình mới ngày càng khó khăn, phức tạp, việc tiếp tục là thành viên của APG và nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ của thành viên tạo điều kiện hỗ trợ cho công tác phòng chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của Việt Nam, qua đó, tăng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

       Bên cạnh những lợi ích thành viên nêu trên, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ thành viên của APG. Theo đó, Việt Nam phải cam kết đóng góp vào quỹ của APG hàng năm trên cơ sở quy mô nền kinh tế theo quy định của APG, cam kết thực hiện các chuẩn mực quốc tế về RT/TTKB/TTPBVKHDHL (40 Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) ban hành); cam kết tham gia vào các vòng đánh giá đa phương của APG theo Phương pháp luận đánh giá của FATF. Kể từ khi trở thành thành viên đến nay, Việt Nam đã trải qua 2 lần đánh giá đa phương của APG (năm 2008 và năm 2019).

       Tại Hội nghị thường niên lần thứ 20 của APG năm 2017, các quốc gia đã thông qua kế hoạch đánh giá đa phương đối với cơ chế PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Từ ngày 04 đến 15/11/2019, Đoàn đánh giá APG đã thực hiện đánh giá tại chỗ đối với Việt Nam. Quá trình đánh giá đa phương lần thứ hai này của APG đối với Việt Nam gồm việc rà soát khuôn khổ pháp lý thực hiện dựa trên việc tuân thủ của các quốc gia thành viên theo 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL đã cập nhật và dựa trên phương pháp luận mới, tập trung vào tình hình và việc thực thi các khuôn khổ pháp lý thông qua đánh giá tính hiệu quả trong quy định tại 11 Mục tiêu trực tiếp của FATF.

Theo phương pháp đánh giá đa phương của APG hiện hành, các quốc gia sẽ bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường nếu có một trong các tiêu chí: (i) Về khuôn khổ pháp lý (TC): Có 1 trong 6 khuyến nghị cốt lõi (các khuyến nghị số 3, 5, 6, 10, 11, 20) bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ và/hoặc có từ 21/40 KN bị đánh giá tuân thủ một phần hoặc không tuân thủ; (ii) Về hiệu quả thực thi (IO): có 7/11 IO hoặc hơn bị đánh giá hiệu quả Trung bình/Thấp, hoặc có 4/11 IO bị đánh giá hiệu quả Thấp.

        Tại Báo cáo đánh giá đa phương nhận định: (i) Về khuôn khổ pháp lý, quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam vẫn còn những thiếu hụt, không đáp ứng hoặc mới đáp ứng được một phần tại 27/40 Khuyến nghị của FATF, trong 27/40 khuyến nghị này có 5/6 khuyến nghị cốt lõi; (ii) Về hiệu quả thực thi: hiện có 2/11 Mục tiêu trực tiếp (IO) được đánh giá hiệu quả “Khá”; 2/11 IO được đánh giá là hiệu quả “Trung bình”; 7 IO bị đánh giá hiệu quả “Thấp”. Với kết quả đánh giá đa phương này, Việt Nam đã bị đưa vào quy trình rà soát tăng cường sau đánh giá đa phương của APG và quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF.

       Trong một năm, kể từ khi bị áp dụng quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF (từ tháng 3/2022 - 3/2023), Việt Nam sẽ phải làm việc thường xuyên với APG/FATF để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương. Sau thời gian này, nếu Việt Nam không thể hiện được sự tiến bộ đối với 09 IO đang bị xếp hạng ở mức Thấp hoặc Trung bình và không đáp ứng các yêu cầu về cải thiện khuôn khổ pháp lý, Việt Nam sẽ bị đưa vào Danh sách các nước có thiếu hụt nghiêm trọng về phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL (gọi tắt là Danh sách Xám) - Danh sách công khai toàn cầu của FATF. 

       Khi một quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám thì nền kinh tế của quốc gia đó sẽ phải chịu nhiều tác động tiêu cực. Cụ thể, theo nghiên cứu của IMF, quốc gia bị đưa vào Danh sách Xám sẽ bị giảm sút đáng kể luồng vốn đầu tư của nước ngoài vào quốc gia đó (khoảng 7,6% trên tổng GDP cả nước). Bên cạnh đó, giao dịch tài chính ra nước ngoài của các tổ chức tài chính (ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán...) tại quốc gia này sẽ bị các nước tính phí cao hơn và giao dịch sẽ phải chịu sự rà soát tăng cường. Các chi phí này ước tính có thể lên tới hàng triệu USD tùy thuộc quy mô nền kinh tế. Hiện nay, trong các nước thành viên của APG, có 23/41 nước bị rơi vào danh sách Xám của FATF, trong đó chỉ có Mông Cổ đã ra khỏi Danh sách Xám trong vòng 01 năm nhờ thực hiện rất nhanh chóng và hiệu quả các hành động khuyến nghị mà APG đưa ra.

        Để khắc phục những thiếu hụt được xác định trong Báo cáo đánh giá đa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia về PCRT, TTKB và TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 (Quyết định số 941/QĐ-TTg ngày 5/8/2022), trong đó bao gồm Danh mục 41 hành động quốc gia về PCRT, TTKB, TTPBVKHDHL giai đoạn 2021-2025 và Phụ lục 83 hành động thực hiện Kế hoạch đến tháng 3/2023. Theo Kế hoạch này, bên cạnh việc ban hành Luật PCRT (sửa đổi) và các văn bản hướng dẫn chi tiết, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tư pháp chủ trì nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự liên quan đến tội rửa tiền, tội TTKB, hành vi TTPBVKHDHL; nghiên cứu tính khả thi và đề xuất xây dựng cơ chế thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội tại Việt Nam; giao Bộ Tư pháp, Bộ Công an phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu, rà soát Luật Tương trợ tư pháp; giao Bộ Xây dựng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bất động sản… Bên cạnh đó, các bộ, ngành phải triển khai thực hiện một loạt các hành động khác như: tăng cường, đẩy mạnh hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm rửa tiền (Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao); tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát trong PCRT thuộc trách nhiệm của các bộ, ngành có đối tượng báo cáo thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của bộ, ngành… Như vậy, để khắc phục các thiếu hụt về cơ chế phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL tại Báo cáo đánh giá đa phương, Việt Nam cần phải có rất nhiều nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ tại Kế hoạch hành động quốc gia và các nhiệm vụ này thuộc trách nhiệm của nhiều bộ, ngành khác nhau. Bên cạnh đó, việc đánh giá Việt Nam đã khắc phục được các thiếu hụt để không bị đưa vào Danh sách Xám còn phụ thuộc vào quan điểm đánh giá của APG và của FATF. 

Việc sửa đổi Luật PCRT thể hiện nỗ lực của Việt Nam nhằm khắc phục những thiếu hụt về cơ sở pháp lý so với các khuyến nghị của FATF đã chỉ ra trong Báo cáo đánh giá đa phương. Cụ thể, hiện nay các nội dung sửa đổi tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi) liên quan đến 25/40 Khuyến nghị, trong đó có 23/25 Khuyến nghị hiện đang bị xếp hạng không tuân thủ hoặc tuân thủ một phần, 2/25 Khuyến nghị hiện được đánh giá ở mức tuân thủ phần lớn. Qua đối chiếu với dự thảo Luật, dự kiến có 11 Khuyến nghị có thể được coi là đáp ứng; 14 Khuyến nghị có thể được coi là chỉ đáp ứng một phần do còn liên quan đến việc hoàn thiện các văn bản pháp luật khác (như: Bộ Luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Phòng, chống khủng bố, các quy định xử phạt vi phạm hành chính, các văn bản hướng dẫn quy trình, cơ chế, nguồn thông tin để thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia) và quá trình tổ chức thực hiện. 

      Trong số 23 Khuyến nghị, có 4 Khuyến nghị cốt lõi liên quan đến Luật PCRT, trong đó 3/4 Khuyến nghị cốt lõi có thể được coi là đáp ứng phần lớn; 01 Khuyến nghị là Khuyến nghị 6 chỉ đáp ứng một phần do liên quan đến việc sửa đổi các quy định tại các văn bản pháp luật có liên quan đến việc quy định chi tiết quy trình chỉ định danh sách, biện pháp trừng phạt tài chính mục tiêu…

      Đối với các Khuyến nghị chưa thể khắc phục do không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật PCRT sẽ được kiến nghị sửa đổi, bổ sung tại các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật Hình sự, Luật Doanh nghiệp, các văn bản quy định xử phạt vi phạm hành chính… Các nội dung này đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 941/QĐ-TTg nêu trên. 

        Cơ sở thực tiễn trong nước về yêu cầu hoàn thiện pháp luật PCRT

        Luật PCRT được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2012 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013 là văn bản pháp lý toàn diện quy định về PCRT theo định hướng phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về PCRT. Từ đó đến nay, trải qua 10 năm thi hành Luật PCRT, công tác PCRT ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định:

       Thứ nhất, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về PCRT của Việt Nam đã dần được hoàn thiện. Hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật về PCRT được ban hành như: Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 87/2019/NĐ-CP), Thông tư số 35/2013/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số quy định về PCRT (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 31/2014/TT-NHNN và Thông tư số 20/2019/TT-NHNN)…

Thứ hai, về hoàn thiện tổ chức, bộ máy, Ban chỉ đạo quốc gia về PCRT đã được thành lập, hoàn thiện, tăng cường hoạt động với Trưởng ban là Phó Thủ tướng Chính phủ và thành viên là đại diện lãnh đạo của 16 bộ, ngành của Việt Nam. Tại các bộ, ngành có liên quan đều có các bộ phận được chỉ định là đầu mối thực hiện công tác PCRT thuộc trách nhiệm của bộ, ngành mình. Ngân hàng Nhà nước, với nhiệm vụ được giao chịu trách nhiệm trước Chính phủ về thực hiện quản lý nhà nước về PCRT, đã thành lập Cục PCRT thuộc Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, có chức năng cơ bản là tiếp nhận, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ và các báo cáo, thông tin khác liên quan đến rửa tiền, tài trợ khủng bố, tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách và hoạt động hợp tác quốc tế về PCRT. 

      Thứ ba, về thực hiện các biện pháp phòng ngừa rửa tiền, các đối tượng báo cáo theo quy định của Luật PCRT, đặc biệt là các tổ chức tài chính như các công ty chứng khoán, bảo hiểm, tổ chức tín dụng đã thiết lập hệ thống PCRT tại tổ chức mình, thực hiện nhận biết, cập nhật và lưu trữ thông tin khách hàng, từ đó phát hiện các giao dịch đáng ngờ để báo cáo cho Cục PCRT. Từ năm 2013 đến nay, Cục PCRT đã tiếp nhận thông tin, báo cáo giao dịch đáng ngờ từ các đối tượng báo cáo và đã phân tích, chuyển giao khối lượng lớn thông tin giao dịch đáng ngờ cho cơ quan có thẩm quyền để tiếp tục điều tra, xử lý góp phần tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và phòng, chống tội phạm nói chung. Trên cơ sở thông tin, dữ liệu tiếp nhận và thu thập từ đối tượng báo cáo và từ cơ quan, tổ chức khác, Cục PCRT đã xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu về PCRT bao gồm các thông tin giao dịch đáng ngờ và giao dịch có giá trị lớn. Thông tin, dữ liệu này bên cạnh việc góp phần hỗ trợ tích cực trong phân tích, xử lý và chuyển giao thông tin giao dịch đáng ngờ còn là nguồn thông tin quan trọng cung cấp cho cơ quan điều tra và các cơ quan có thẩm quyền khác trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền và các loại tội phạm khác. Trong công tác đấu tranh phòng, chống các tội phạm về tham nhũng, thông tin dữ liệu từ Cục PCRT hỗ trợ cơ quan điều tra trong điều tra, xác định tài sản của đối tượng điều tra để chứng minh tội phạm, xác định tài sản tham nhũng cần thu hồi cho ngân sách nhà nước.

        Thứ tư, về hợp tác quốc tế, Luật PCRT đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đàm phán, ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế về trao đổi thông tin liên quan đến rửa tiền. Ngân hàng Nhà nước đã ký kết 10 Biên bản ghi nhớ trao đổi thông tin hợp tác với các cơ quan tình báo tài chính nước ngoài Nhật, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Lào, Campuchia, Nga, Băngladesh, Vương quốc Anh. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PCRT đã góp phần ngăn chặn kịp thời các tội phạm rửa tiền và các tội phạm xuyên quốc gia, qua đó, Việt Nam cũng đã học hỏi nhiều kinh nghiệm trong công tác PCRT của các quốc gia và tổ chức quốc tế. Bên cạnh đó, việc thực thi công tác PCRT đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân Việt Nam khi mở rộng quan hệ kinh doanh, hợp tác với các đối tác nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

       Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Luật PCRT còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động PCRT, cần được nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện, cụ thể:

       Thứ nhất, Luật PCRT được Quốc hội thông qua vào năm 2012. Tại thời điểm này, các quy định của Luật PCRT được xây dựng theo hướng phù hợp, nội luật hóa các khuyến nghị của FATF được ban hành trước năm 2012 và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phát sinh về PCRT trong giai đoạn này. Từ đó đến nay, FATF đã có 11 lần sửa đổi các khuyến nghị, dẫn đến việc một số quy định tại Luật PCRT và các văn bản hướng dẫn thi hành không còn phù hợp với 40 Khuyến nghị hiện hành của FATF.

       Thứ hai, về đối tượng báo cáo của Luật PCRT, theo quy định hiện hành, đối tượng báo cáo của Luật PCRT bao gồm 02 nhóm: (i) các tổ chức tài chính (FIs); và (ii) các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính (DNFBPs) phù hợp với các hoạt động của đối tượng báo cáo tại thời điểm ban hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, phát sinh một số hoạt động mới cần được bổ sung vào đối tượng báo cáo như hoạt động trung gian thanh toán. 

Thực tế, về hoạt động trung gian thanh toán, hiện nay khung pháp lý cho hoạt động này tương đối đầy đủ. Tuy nhiên các quy định về PCRT mới chỉ được quy định tại các văn bản dưới luật nên chưa đảm bảo đầy đủ và hiệu quả. Do đó, cần luật hóa hoạt động này vào đối tượng báo cáo tại dự thảo Luật PCRT (sửa đổi). Đồng thời, trong thực tiễn có thể phát sinh những hoạt động mới có rủi ro về rửa tiền, đặt ra yêu cầu cần phải có quy định tại Luật PCRT để bao quát được các lĩnh vực, hoạt động mới phát sinh này.

      Thứ ba, Luật PCRT hiện hành không có quy định về việc đánh giá rủi ro quốc gia và tại từng đối tượng báo cáo về rửa tiền, trách nhiệm của các bộ, ngành trong việc đánh giá rủi ro quốc gia về rửa tiền; đồng thời, quy định về việc thực hiện các biện pháp PCRT trên cơ sở rủi ro của các đối tượng báo cáo tại Luật PCRT chưa đảm bảo tính đầy đủ, hợp lý. Trong khi đó đây là một trong những yêu cầu thuộc nhóm các vấn đề then chốt và cơ bản trong công tác PCRT được nêu ra tại Khuyến nghị số 1 trong Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về PCRT.

       Thứ tư, về các biện pháp PCRT áp dụng đối với đối tượng báo cáo, qua quá trình triển khai và đối chiếu các quy định theo các yêu cầu tại Bộ 40 Khuyến nghị của FATF về các biện pháp phòng ngừa rửa tiền mà đối tượng báo cáo phải áp dụng, vẫn còn một số tồn tại cơ bản như: các quy định áp dụng đối với các thỏa thuận ủy quyền hiện chưa đầy đủ và chưa rõ ràng do định nghĩa về thỏa thuận ủy quyền được nêu ra trong Luật PCRT chưa phù hợp với khái niệm tương ứng về “legal arrangement" theo khuyến nghị của FATF; Quy định về các giao dịch liên quan tới công nghệ mới còn thiếu các quy định theo yêu cầu mới phát sinh tại 40 Khuyến nghị của FATF như yêu cầu đối tượng báo cáo phải thực hiện đánh giá rủi ro về rửa tiền trước khi cung cấp các sản phẩm, dịch vụ mới, sản phẩm, dịch vụ hiện có áp dụng công nghệ mới...

      Từ các cơ sở nêu trên, việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) là cần thiết, nhằm phù hợp với các nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế, cam kết quốc tế của Việt Nam, thể hiện Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm trong công tác phòng, chống RT/TTKB/TTPBVKHDHL của khu vực cũng như trên toàn thế giới. Đồng thời, việc sửa đổi Luật PCRT 2012 cũng phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định của pháp luật, qua đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác PCRT/TTKB/TTPBVKHDHL trong thời gian tới. 

Bên cạnh đó, để đáp ứng kịp thời các yêu cầu trong nước về tăng cường hiệu quả của quy định pháp luật về PCRT cũng như yêu cầu về đáp ứng các khuyến nghị của FATF, khắc phục một số thiếu hụt theo đánh giá đa phương của APG trong thời hạn 01 năm (kể từ khi bị áp dụng quy trình rà soát các nước có thiếu hụt nghiêm trọng của FATF (từ tháng 3/2022 - 3/2023) việc trình Quốc hội thông qua Luật PCRT (sửa đổi) tại một kỳ họp vào tháng 10/2022 là cần thiết.

       Mục đích xây dựng Luật PCRT (sửa đổi)

      Việc xây dựng Luật PCRT (sửa đổi) nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật PCRT hiện hành như đã đề cập tại điểm 3 Phần I, góp phần nâng cao hiệu quả công tác PCRT; xây dựng hệ thống pháp luật về PCRT phù hợp với các yêu cầu, chuẩn mực quốc tế về PCRT mà Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện trên cơ sở bảo đảm sự độc lập, tự chủ về kinh tế cũng như bảo đảm an ninh tiền tệ, an toàn tài chính quốc gia; nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền nói riêng và công tác phòng, chống tội phạm nói chung.

       Quan điểm xây dựng Luật PCRT (sửa đổi)

     Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với công tác PCRT. Đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

Kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục các vướng mắc, bất cập các quy định của pháp luật PCRT hiện hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong hoạt động PCRT hiện nay.

Tham khảo, cụ thể hóa các chuẩn mực quốc tế về PCRT trên cơ sở phù hợp với các điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; tham khảo pháp luật của một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội tương đồng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các quy định về PCRT. 

        Bố cục và nội dung cơ bản của Luật PCRT (sửa đổi)

    Luật PCRT (sửa đổi) được bố cục gồm 4 Chương, 66 Điều, cụ thể:

- Chương I: Những quy định chung.  (từ điều 1 đến điều 8).

- Chương II: Biện pháp phòng, chống rửa tiền (từ điều 9 đến điều 46).

- Chương III: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong phòng, chống rửa tiền (điều 47 đến điều 63).

- Chương IV: Điều khoản thi hành (từ điều 64 đến điều 66).

     Rửa tiền là hành vi của tổ chức, cá nhân nhằm hợp pháp hóa nguồn gốc của tài sản do phạm tội mà có nên Luật Phòng, chống rửa tiền quy định về các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi rửa tiền; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống rửa tiền; hợp tác quốc tế về phòng, chống rửa tiền. Việc phòng, chống hành vi rửa tiền của tổ chức, cá nhân có mục đích tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt được thực hiện theo quy định của Luật này, quy định của pháp luật hình sự và pháp luật về phòng, chống khủng bố, phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt.

      Luật Phòng, chống rửa tiền được thực hiện trên nguyên tắc việc phòng, chống rửa tiền phải thực hiện theo quy định của pháp luật trên cơ sở bảo đảm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia; bảo đảm hoạt động bình thường về kinh tế, đầu tư­; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; chống lạm quyền, lợi dụng việc phòng, chống rửa tiền để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Hành vi rửa tiền phải được xử lý theo quy định của pháp luật. Biện pháp phòng, chống rửa tiền phải được thực hiện đồng bộ, kịp thời.

 


Lâm Anh
Nguồn tin: Từ nguồn Tờ trình dự thảo Luật

File đính kèm
   

Nhập nội dung ý kiến của bạn.
Nhập tên của bạn.
Nhập email của bạn.