Về phạm vi điều chỉnh, ngoài giữ nguyên các lĩnh vực như trước thì trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, Nghị định số 82/2020/NĐ-CP bổ sung thêm lĩnh vực hòa giải thương mại và thừa phát lại. Đối với thừa phát lại, đây là lĩnh vực được đưa vào áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước từ ngày 24/02/2020 theo Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại. Việc bổ sung thêm lĩnh vực này nhằm điều chỉnh hành vi của các văn phòng hành nghề thừa phát lại trên cả nước. Ngoài ra, trong lĩnh vực hành chính tư pháp, Nghị định bổ sung thêm lĩnh vực trách nhiệm bồi thường của Nhà nước theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Về đối tượng xử phạt, Nghị định bổ sung thêm chi nhánh của trung tâm tư vấn pháp luật; chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm trọng tài; chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; tổ chức mà nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng vào đối tượng áp dụng và các lĩnh vực ngành nghề mới như: trung tâm hòa giải thương mại; chi nhánh, văn phòng đại diện của trung tâm hòa giải thương mại; tổ chức hòa giải thương mại nước ngoài tại Việt Nam; văn phòng thừa phát lại. Về mức phạt tiền đối với cá nhân, tổ chức, Nghị định quy định mức phạt tiền tối đa đối với cá nhân trong các lĩnh vực: hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình là 30.000.000 đồng; lĩnh vực thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là 40.000.000 đồng; lĩnh vực bổ trợ tư pháp là 50.000.000 đồng. Thẩm quyền phạt tiền của các chức danh được quy định tại Chương VIII của Nghị định là thẩm quyền phạt tiền đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân. Trường hợp tổ chức có hành vi vi phạm hành chính như của cá nhân thì mức phạt tiền bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân. Mức phạt tiền quy định tại Nghị định được áp dụng đối với hành vi vi phạm của cá nhân, trừ các Điều 7, 8, 9, 16, 17, 24, 26, 29, 33, 39, 50, 53, 63, 71, 72, 73, 74 và Điều 80 của Nghị định là mức phạt tiền đối với hành vi vi phạm hành chính của tổ chức. Đối với một số hành vi vi phạm cụ thể, Nghị định đã quy định tăng mức xử phạt rất đáng kể so với Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP của Chính phủ như: Phạt tiền đến 40 triệu đồng nếu luật sư tiết lộ thông tin khách hàng khi chưa được phép. Theo đó, tại khoản 7 Điều 6 của Nghị định quy định luật sư khi tiết lộ thông tin về vụ, việc, về khách hàng mà mình biết trong khi hành nghề mà không được khách hàng đồng ý bằng văn bản theo quy định sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng; bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam từ 06 tháng đến 09 tháng. Các hành vi như: Cung cấp hoặc hướng dẫn khách hàng cung cấp tài liệu, vật chứng giả, sai sự thật; xúi giục khách hàng khai sai sự thật hoặc xúi giục khách hàng khiếu nại, tố cáo trái pháp luật; móc nối, quan hệ với người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cán bộ, công chức, viên chức để làm trái quy định của pháp luật trong việc giải quyết vụ, việc; tham gia lôi kéo, kích động, mua chuộc, cưỡng ép người khác tập trung đông người để gây rối trật tự công cộng, thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; cung cấp dịch vụ pháp lý, hoạt động tư vấn pháp luật với danh nghĩa luật sư hoặc mạo danh luật sư để hành nghề luật sư; treo biển hiệu khi chưa được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư hoặc chưa gia nhập Đoàn luật sư.... cũng bị mức phạt tương tự. Trong lĩnh vực công chứng, Nghị định cũng đã tăng mức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định hoạt động hành nghề công chứng. Theo đó, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: Công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng không đúng quy định; công chứng không đúng thời hạn quy định; sửa lỗi kỹ thuật văn bản công chứng không đúng quy định; sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng; từ chối yêu cầu công chứng mà không có lý do chính đáng; không dùng tiếng nói hoặc chữ viết là tiếng Việt; không tham gia tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên; hướng dẫn nhiều hơn 02 người tập sự tại cùng một thời điểm; hướng dẫn tập sự khi không đủ điều kiện theo quy định; không thực hiện đúng các nghĩa vụ của người hướng dẫn tập sự theo quy định; công chứng hợp đồng, giao dịch trong trường hợp không có phiếu yêu cầu công chứng; công chứng hợp đồng, giao dịch trong trường hợp thành phần hồ sơ có giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung; từ chối hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng không có lý do chính đáng. Ngoài ra, đối với hành vi công chứng hợp đồng, giao dịch trong trường hợp thành phần hồ sơ có giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền cấp bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung thì còn bị tịch thu giấy tờ, văn bản bị tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch nội dung và bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản bị tẩy xóa, sửa chữa làm sai lệch nội dung này. Trong lĩnh vực hộ tịch, đối với hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về nội dung khai sinh; cam đoan, làm chứng sai sự thật về việc sinh; sử dụng giấy tờ của người khác để làm thủ tục đăng ký khai sinh bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với mỗi hành vi và kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy khai sinh đã cấp do có hành vi vi phạm. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật khi làm thủ tục thay đổi, cải chính hộ tịch, bổ sung thông tin hộ tịch, xác định lại dân tộc để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi hoặc nhằm mục đích trục lợi khác. Đồng thời, kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với giấy tờ, văn bản đã cấp do có hành vi vi phạm và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm nói trên.