THÔNG TIN PHỔ BIẾN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

TỈNH THANH HÓA
   


Tình huống HỎI - ĐÁP PHÁP LUẬT DÀNH CHO CÁN BỘ VÀ NHÂN DÂN TẠI MỘT SỐ ĐỊA BÀN TRỌNG ĐIỂM VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
Lĩnh vực Dịch vụ pháp lý
Chủ đề Pháp luật Dân sự
Trạng thái Còn hiệu lực
File đính kèm
HỎI ĐÁP PHÁP LUẬT MỘT SỐ LĨNH VỰC - BỘ LUẬT HÌNH SỰ - LUẬT PHÒNG CHỐNG TÁC HẠI CỦA RƯỢU, BIA - XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI - BỘ LUẬT LAO ĐỘNG

I. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ LUẬT SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ SỐ 100/2015/QH13 NĂM 2017 VỀ TỘI PHẠM, HÌNH PHẠT VÀ XÓA ÁN TÍCH Hỏi: Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tội phạm được hiểu như thế nào? Trả lời: Tội phạm là chế định quan trọng và chủ yếu của luật hình sự. Nội dung của khái niệm tội phạm đã thể hiện một cách rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị xã hội cũng như những đặc điểm pháp lí của luật hình sự. Nó còn được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lí khác. Tại Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định khái niệm về tội phạm như sau: 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. 2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác. Như vậy, theo quy định trên thì tội phạm bao gồm những nội dung chủ yếu sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; Tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự; Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện; Tội phạm được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý; Tội phạm xâm phạm vào những quan hệ xã hội như: xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 phải bị xử lý hình sự. Hỏi: Bà A hỏi, chồng bà bị phạt 5 năm tù về tôi tàng trữ chất ma túy, vậy hành vi của chồng bà thuộc loại tội nào? Theo quy định Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017 thì tội phạm được phân làm mấy loại? Là những loại nào? Trả lời: Theo khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017 có quy định: 1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây: a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm; b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù; c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù; d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. 2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.”. Như vậy, dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội tội phạm được phân loại thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Và theo đó cũng là những khung hình phạt tương ứng, khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự để quyết định. Từ quy định trên, thì chồng của bà A bị xử phạt 5 năm tù thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Hỏi: Khi thực hiện những hành vi xâm phạm các quan hệ do Bộ luật Hình sự đang có hiệu lực bảo vệ thì tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định như thế nào? Trả lời: Vấn đề năng lực trách nhiệm hình sự chỉ được đặt ra khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định (trừ trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự). Xuất phát từ sự phát triển tâm, sinh lý của cá nhân cũng như căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm mà trong từng giai đoạn khác nhau nhà làm luật quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng khác nhau. Theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 và khoản 3 điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017 thì tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định như sau: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật hình sự 2015 có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.” Như vậy, tùy từng đội tuổi thì người vi phạm phải chịu mức độ trách nhiệm hình sự khác nhau. Hỏi: Tôi là mẹ của cháu Nguyễn Văn A, năm 2018 tôi có phát hiện cháu ăn trộm của trường Tiểu học xã Linh Mai 01 bộ máy tính trị giá 10 triệu đồng, vì thương con nên tôi đã che dấu cho cháu và khuyên nhủ cháu không được lấy trộm nữa, đến nay cháu bị phát hiện và công an đang xử lý. Cho tôi hỏi, theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành thì tôi có bị xử lý hình sự không? Và quy định về người che giấu tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự như thế nào? Trả lời: Trên thực tế, chúng ta vẫn thường thấy cùng là hành vi che giấu tội phạm với cơ quan công an nhưng có người che giấu thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm, nhưng có người cũng là che giấu, không tố cáo người phạm tội với cơ quan có thẩm quyền thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp của bà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và được quy định tại Điều 18, Bộ luật Hình sự năm 2015 cụ thể như sau: 1. Người nào không hứa hẹn trước, nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật Hình sự 2015 quy định. 2. Người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại Điều 389 của Bộ luật Hình sự 2015. Theo quy định trên, hành vi che giấu tội phạm được hiểu là một cá nhân nào đó không có hẹn trước với người phạm tội, khi tội phạm xảy ra người này đã cố tình che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật của vụ án hoặc gây khó khăn cho cơ quan điều tra trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, một hành vi được coi là che giấu tội phạm phải có dấu hiệu sau: Người che giấu tội phạm không hẹn trước, thỏa thuận với người tội phạm về việc che giấu tội phạm. Nếu người che giấu tội phạm hẹn trước với người phạm tội về việc người này sẽ giúp đỡ người kia xóa dấu tích, phi tang vật chứng… để người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người che giấu tội phạm không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm mà người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh đồng phạm, là người giúp sức cho người phạm tội theo Điều 17, Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên khi quy định về tội không tố giác tội phạm, các nhà làm luật cũng tính đến các quan hệ xã hội như quan hệ về mặt đạo đức giữa vợ -chồng, cha-con; anh-em… Do vậy, nếu người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm. Nhưng đối với những tội có tính chất nguy hiểm cao, ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia như nhóm tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, tội phạm rất nghiêm trọng bắt buộc những người che giấu tội phạm trên vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Hỏi: Một người biết rõ một người khác phạm tội nhưng không tố giác, vậy có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Trả lời: Một người tuy biết rõ một người khác phạm tội nhưng không tố giác có thể phải chịu trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mối quan hệ của người đó với người phạm tội hoặc phụ thuộc vào việc người phạm tội có phạm vào các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng hay không, điều này được quy định tại khoản 5 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017 cụ thể như sau: 1. Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật này. 2. Người không tố giác là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. 3. Người không tố giác là người bào chữa không phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều này, trừ trường hợp không tố giác các tội quy định tại Chương XIII của Bộ luật này hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do chính người mà mình bào chữa đang chuẩn bị, đang thực hiện hoặc đã thực hiện mà người bào chữa biết rõ khi thực hiện việc bào chữa.”. Hỏi: Hình phạt được hiểu như thế nào? Các hình phạt cụ thể được áp dụng đối với tội phạm ra sao? Trả lời: - Hình phạt được hiểu là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. - Hình phạt không chỉ nhằm mục đích trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn có ý nghĩa giáo dục họ ý thức tuân theo các quy định của pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Tại điều 32 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định các hình phạt đối với người phạm tội và tại Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội, cụ thể như sau: Các hình phạt đối với người phạm tội 1. Hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Cải tạo không giam giữ; d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn; e) Tù chung thân; g) Tử hình. 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; b) Cấm cư trú; c) Quản chế; d) Tước một số quyền công dân; đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. 3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội 1. Hình phạt chính bao gồm: a) Phạt tiền; b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn; c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. 2. Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; b) Cấm huy động vốn; c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. 3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung. Hỏi: Tôi phạm tội trộm cắp tài sản và bị Tòa án nhân dân huyện xử 02 năm tù cách đây đã 3 năm, tuy nhiên sau nhiều lần hoãn thi hành án, nay tôi mới phải chấp hành hình phạt tù, tôi muốn biết thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định như thế nào? Trả lời: - Theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì thời hiệu thi hành bản án hình sự được hiểu là thời hạn do Bộ luật Hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên. - Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án được quy định như sau: Đối với cá nhân được tính như sau: - 05 năm đối với các trường hợp xử phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc xử phạt tù từ 03 năm trở xuống; - 10 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 03 năm đến 15 năm; - 15 năm đối với các trường hợp xử phạt tù từ trên 15 năm đến 30 năm; - 20 năm đối với các trường hợp xử phạt tù chung thân hoặc tử hình. Đối với pháp nhân thương mại thời hiệu được tính như sau: Thời hiệu thi hành bản án hình sự đối với pháp nhân thương mại là 05 năm. Lưu ý: Thời hiệu thi hành bản án hình sự được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hạn nêu trên, người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Nếu trong trường hợp, người bị kết án cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ ngày người đó ra trình diện hoặc bị bắt giữ. Hệ quả pháp lý của bản án hình sự khi đã hết thời hiệu thi hành Trước tiên ta phải hiểu thời hiệu thi hành bản án hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự quy định để thi hành bản án hình sự đối với người bị kết án, pháp nhân thương mại. Về mặt bản chất đây là thời hiệu thi hành phần hình phạt trong bản án hình sự. Còn đối với các quyết định khác trong bản án hình sự như về bồi thường thiệt hại, án phí và các quyết định khác về tài sản thì việc xác định thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Theo quy định thì thời hiệu thi hành bản án hình sự tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Tùy thuộc vào mức hình phạt mà người phạm tội bị Tòa án tuyên phạt là bao nhiêu mà có thời hiệu đối với từng tội cụ thể. Tuy nhiên điểm chung là khi hết thời hết thời hạn thi hành thì người bị kết án, pháp nhân thương mại bị kết án không phải chấp hành bản án đã tuyên. Có thể nói Bộ luật Hình sự quy định thời hiệu thi hành bản án hình sự là để đảm bảo việc thi hành bản án này trên thực tế, tránh trường hợp các cơ quan thi hành án hình sự tắc trách mà không thi hành bản án của Tòa án, đồng thời đây cũng là căn cứ để quy kết trách nhiệm cho cơ quan đã không hoàn thành nhiệm vụ thi hành bản án. Hỏi: Con tôi bị xử phạt 5 năm tù về tội cố ý gây thương tích, tôi muốn biết về việc miễn chấp hành hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 như thế nào để động viên cháu cải tạo sớm được ra trại? Trả lời: Miễn chấp hành hình phạt quy định tại Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015, được áp dụng đối với người bị kết án bằng loại hình phạt đã tuyên được đặt ra có thể đưa đến việc chấm dứt, hủy bỏ toàn bộ, phần còn lại hoặc không buộc phải chấp hành trong giai đoạn thi hành án hình sự, cụ thể như sau: 1. Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi được đặc xá hoặc đại xá. 2. Người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn đến 03 năm chưa chấp hành hình phạt thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành hình phạt, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Sau khi bị kết án đã lập công; b) Mắc bệnh hiểm nghèo; c) Chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. 3. Người bị kết án phạt tù có thời hạn trên 03 năm, chưa chấp hành hình phạt nếu đã lập công lớn hoặc mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. 4. Người bị kết án phạt tù đến 03 năm, đã được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, nếu trong thời gian được tạm đình chỉ mà đã lập công hoặc chấp hành tốt pháp luật, hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn và xét thấy người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. 5. Người bị kết án phạt tiền đã tích cực chấp hành được một phần hình phạt nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục chấp hành được phần hình phạt còn lại hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết đinh miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại. 6. Người bị phạt cấm cư trú hoặc quản chế, nếu đã chấp hành được một phần hai thời hạn hình phạt và cải tạo tốt, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện nơi người đó chấp hành hình phạt, Tòa án có thể quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. 7. Người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Điều này vẫn phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án. Như vậy, đây là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện mục đích của hình phạt, vừa có ý nghĩa khuyến khích người bị kết án tích cực giáo dục, cải tạo, vừa thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa. Hỏi: Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 thì xóa án tích được quy định như thế nào? Trả lời: Người phạm tội sau khi sau khi chấp hành xong bản án hình sự người đó vẫn phải mang án tích trong một khoảng thời gian nhất định tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm của tội phạm mà người đó đã xâm phạm tới các quan hệ xã hội được Bộ luật Hình sự năm 2015 bảo vệ. Việc mang án tích của người phạm tội trong một tời gian là cần thiết tuy nhiên không phải họ mang án tích suốt đời mà đến một thời điểm nhất định hõ sẽ được xóa án tích, sau khi được xóa án tích thì người đó được coi như không có án tích. Quy định về xóa án tích thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính chất nhân văn của pháp luật và giúp người bị kết án không còn mặc cảm với xã hội, tạo điều kiện cho người phạm tội hòa nhập với cộng đồng, trở thành công dân lương thiện. Chính điều này đã khuyến khích những người bị kết án tích cực rèn luyện bản thân cải tạo đạt kết quả tốt, chấp hành nghiêm chỉnh bản án Tại Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về xóa án tích cụ thể như sau: 1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70 đến Điều 73 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án. 2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích. Như vậy, xóa án tích là trường hợp người bị kết án, sau khi đã chấp hành xong hình phạt trong một thời gian nhất định và có những điều kiện bắt buộc có thể được coi là chưa can án và được cấp giấy chứng nhận. Trong lý lịch tư pháp của người đó được xác định là chưa can án, nếu họ phạm tội mới thì không bị xem xét là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Hỏi: Tháng 8 năm 2010, anh Nguyễn Văn A phạm tội và bị Tòa án nhân dân huyện xét sử về tội trộm cắp tài sản với hình phạt là 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng, ngoài ra anh còn phải chịu trách nhiệm nộp tiền án phí. Sau khi bị xét xử anh A luôn chấp hành tốt các quy định của pháp luật, không có hành vi phạm tội mới, nghĩa vụ án phí anh A đã hoàn thành. Trong trường hợp này hiện nay anh A có được xóa án tích không? Anh A sẽ liên hệ với cơ quan nào để được giải quyết? Trả lời: Theo Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 về đương nhiên xóa án tích có quy định: 1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. 2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. 3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. 4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này. Như vậy, do anh A bị phạt tù nhưng được hưởng án treo nên sau khi anh A chấp hành xong hình phạt chính tháng 8/2012 và anh A đã nộp tiền án phí thì anh A đủ điều kiện được xóa án tích và anh A thuộc diện đương nhiên xóa án tích mà không cần phải có quyết định của Tòa án. Để được xóa án tích theo quy định anh A chỉ cần liên hệ với Sở Tư pháp nơi anh A có hộ khẩu thường trú sẽ được giải quyết theo thủ tục cấp Phiếu lý lịch tư pháp, kết quả phiếu lý lịch tư pháp của anh A sẽ xác định anh A được xóa án tích. Hỏi: Việc xóa án tích theo quyết định của Tòa án được Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017 quy định như thế nào? Trả lời: Tại khoản 10 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 năm 2017 có quy định xóa án tích theo quyết định của Tòa án cụ thể như sau: 1. Xóa án tích theo quyết định của Tòa án được áp dụng đối với người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này. Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người bị kết án căn cứ vào tính chất của tội phạm đã thực hiện, thái độ chấp hành pháp luật, thái độ lao động của người bị kết án và các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này. 2. Người bị kết án được Tòa án quyết định việc xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; b) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d) 07 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại điểm a, điểm b khoản này thì Tòa án quyết định việc xóa án tích từ khi người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. 3. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu, thì sau 01 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi, thì sau 02 năm kể từ ngày bị Tòa án bác đơn mới được xin xóa án tích. Như vậy: Với các tội xâm phạm về an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh thì xóa án tích thuộc thẩm quyền của Tòa án. II. TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐINH CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG TÁC HẠI CỦA RƯỢU, BIA NĂM 2019 Hỏi: Rượu bia gây hại cho người sử dụng như thế nào? Trả lời: Chất cồn gây tác hại cho người sử dụng thông qua ba cơ chế trực tiếp chính gồm: - Gây độc hại cho các cơ quan và mô trong cơ thể do làm tổn thương tế bào và dẫn đến hậu quả là mắc bệnh mạn tính (ung thư, bệnh lý tim mạch, đái tháo đường). - Gây nhiễm độc (intoxication): thường là cấp tính, tác động lên cấu trúc và dẫn truyền của hệ thống thần kinh trung ương, làm rối loạn phối hợp động tác, giảm tỉnh táo, rối loạn nhận biết, ý thức, ảnh hưởng đến hành vi, từ đó rây ra các hậu quả cấp tính về sức khỏe và hậu quả xã hội cho người uống và người xung quanh (tại nạn, thương tích, bạo lực…). - Chất cồn là chất hướng thần gây nghiện, người uống phải gia tăng liều dùng và tái sử dụng. Việc uống thường xuyên rượu bia dẫn đến thích nghi thần kinh khiến cho việc giảm liều lượng hoặc ngừng uống sẽ dẫn đến hội chứng “cai rượu”. Lệ thuộc rượu bia sẽ gây ra loạn thần do rượu và dẫn đến mắc các bệnh mạn tính cũng như gây ra các hậu quả trước mắt và gánh nặng lâu dài cho xã hội. Chất cồn còn có thể tương tác xấu với các chất hóa học khác trong cơ thể, làm trầm trọng thêm những tổn thương thể chất và tinh thần có sẵn. + Rượu bia và tổn thương gan: Uống rượu bia thường xuyên gây tổn thương gan do tình trạng gan bị thiếu oxy và phải tiếp xúc với các sản phẩm độc hại phát sinh trong quá trình chuyển hóa cồn của cơ thể, có thể dẫn tới xơ gan. + Rượu bia và tổn thương não: Rượu bia đã được chứng minh là tác động ở mức phân tử và mức tế bào đến quá trình hình thành và phát triển của não. Thanh thiếu niên đặc biệt nhạy cảm với các tác động này và có thể dẫn đến thay đổi cấu trúc của đồi hải mã, là vũng não có vai trò quan trọng cho quá trình học tập. + Rượu bia và tổn thương hệ miễn dịch: Uống rượu bia gây hậu quả cấp tính hoặc mạn tính tới hệ miễn dịch làm cho người uống thường bị suy giảm miễn dịch và có nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm cao hơn. Như vậy, uống rượu bia có tác hại tiềm tàng về sức khỏe và xã hội với cả người uống và người không uống. Một số tác hại có thể thấy ngay như chấn thương hay tác hại do nhiễm độc rượu bia hoặc của nồng độ cồn trong máu cao. Một số tác hại khác lại diễn ra từ từ và kéo dài như gây tổn thương mạn tính với với sức khỏe (mắc bệnh ung thư, bệnh lý tim mạch…) hay tác hại đối với gia đình, công viêc, mối quan hệ xã hội. Có sự khác biệt đáng kể về tác động của uống rượu bia giữa các cá thể: ví dụ không phải tất cả người nghiện rượu nặng đều bị xơ gan. Quá trình chuyển hóa rượu bia trong cơ thể có thể khác biệt tới 2-3 lần, phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi, giới tính, di truyền, mức độ chuyển hóa ở gan. Chính điều này ảnh hưởng tới mức độ tác hại khác nhau đối với cơ thể với cùng lượng sử dụng. Sự khác biệt này ảnh hưởng đến hành vi, khả năng nghiện và nguy cơ tổn thương các cơ quan khác nhau của cơ thể. Hỏi: Tôi được biết về Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhưng chưa được hiểu rõ. Xin hỏi Luật điều chỉnh những nội dung gì? Và có hiệu lực thi hành từ khi nào? Trả lời: - Nhằm thể chế hóa quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng về “phòng bệnh hơn chữa bệnh”, trực tiếp thể chế hóa Nghị quyết số 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới; kịp thời, chủ động ứng phó với thực trạng sử dụng rượu, bia ở mức cao, có xu hướng gia tăng nhanh, đáng báo động trong bối cảnh thị trường đồ uống đặc biệt biệt là rượu, bia được dự báo tăng trưởng mạnh theo lộ trình xóa bỏ thuế nhập khẩu khi Việt Nam tham gia sâu hơn vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, ngày 14/6/2019, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tác hại của bia, rượu. Phạm vi điều chỉnh của Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia được quy định tại Điều 1 của Luật. Theo đó, Luật này quy định biện pháp giảm mức tiêu thụ rượu, bia; biện pháp quản lý việc cung cấp rượu bia; biện pháp giảm tác hại của rượu, bia; điều kiện đảm bảo cho hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia; quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tác hại của rượu, bia. - Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2020. Hỏi: Khoản 1 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ quy định nghiêm cấm “Điều khiển xe môt tô, xe gắn máy mà trong máu có nông độ cồn vượt quá 50miligam/100 mililít máu hoặc 0.25 miligam/1 lít khí thở”. Tuy nhiên tại khoản 6 Điều 5 Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia cũng có quy định nghiêm cấm “Điều khiển phương tiện tham gia giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Như vậy, việc vận dụng và thực hiện theo quy định nào mới đúng pháp luật? Trả lời: Khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”. Luật Giao thông đường bộ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 4 ngày 13/11/2008 và có hiệu lực từ ngày1/7/2009. Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 14/6/2019 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2020. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2020, việc xác định hành vi nghiêm cấm đối với người điểu khiển xe môtô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn được thực hiện theo quy định của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia. Hỏi: Tác hại của việc sử dụng rượu, bia gây ra những hệ lụy rất lớn đối với sức khỏe, các vấn đề xã hội và sẽ ngày càng trầm trọng hơn nếu không được ngăn chăn kịp thời. Hiện nay, nhà nước có những chính sách gì trong phòng, chống tác hại của rượu, bia? Trả lời: Để đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước trong phòng, chống tác hại của rượu, bia đạt hiệu quả. Điều 3 Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia quy định về chính sách của Nhà nước trong phòng, chống tác hại của rượu, bia như sau: 1. Thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia. 2. Ưu tiên hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông; giảm tính sẵn có, dễ tiếp cận của rượu, bia; giảm tác hại của rượu, bia; tăng cường quản lý sản xuất rượu thủ công; thực hiện các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia đối với trẻ em, học sinh, sinh viên, thanh niên, phụ nữ mang thai. 3. Bảo đảm nguồn lực cho công tác phòng, chống tác hại của rượu, bia; chú trọng các hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia của y tế cơ sở và ở cộng đồng; huy động xã hội hóa các hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia. 4. Khuyến khích nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ứng dụng công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ mới nhằm giảm tác hại của rượu, bia. 5. Khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích trong phòng, chống tác hại của rượu, bia. Hỏi: Pháp luật quy định như thế nào về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong phòng chống tác hại của rượu, bia? Trả lời: Điều 4 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức trong phòng, chống tác hại của rượu, bia: - Được sống trong môi trường không chịu ảnh hưởng bởi tác hại của rượu, bia. - Được cung cấp thông tin phù hợp, chính xác, khách quan, khoa học, đầy đủ về rượu, bia, nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng và tác hại của rượu, bia. - Phản ánh, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia; tố cáo việc cơ quan, người có thẩm quyền không xử lý hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia. - Tuân thủ quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia. Hỏi: Tại địa bàn nơi tôi đang sinh sống có hiện tượng các thanh, thiếu niên trong đó có cả những cháu học lớp 8, 9 thường tổ chức giao lưu thể thao, sau đó có tổ chức tiệc liên hoan. Trong các buổi liên hoan, các cháu có sử dụng rượu, bia. Xin hỏi việc sử dụng rượu bia của các thanh, thiếu niên có đúng không? Luật Phòng chống tác hại của rượu bia năm 2019 quy định các hành vi cấm nào trong phòng, chống tác hại của rượu, bia? Trả lời: * Luật Phòng chống tác hại của rượu bia năm 2019 cấm những người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia vì vậy các cháu học lớp 8,9 chưa đủ 18 tuổi mà uống rượu, bia là trái các quy định của pháp luật. * Theo điều Điều 5 Luật Phòng chống tác hại của rượu bia năm 2019 quy định các hành vi bị nghiêm cấm, đó là: 1. Xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia. 2. Người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia. 3. Bán, cung cấp, khuyến mại rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi. 4. Sử dụng lao động là người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc sản xuất, mua bán rượu, bia. 5. Cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan, tổ chức, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, chiến sĩ, người làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân, học sinh, sinh viên uống rượu, bia ngay trước, trong giờ làm việc, học tập và nghỉ giữa giờ làm việc, học tập. 6. Điều khiển phương tiện giao thông mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. 7. Quảng cáo rượu có độ cồn từ 15 độ trở lên. 8. Cung cấp thông tin không chính xác, sai sự thật về ảnh hưởng của rượu, bia đối với sức khỏe. 9. Khuyến mại trong hoạt động kinh doanh rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên; sử dụng rượu, bia có độ cồn từ 15 độ trở lên để khuyến mại dưới mọi hình thức. 10. Sử dụng nguyên liệu, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến không được phép dùng trong thực phẩm; nguyên liệu, phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm không bảo đảm chất lượng và không rõ nguồn gốc, xuất xứ để sản xuất, pha chế rượu, bia. 11. Kinh doanh rượu không có giấy phép hoặc không đăng ký; bán rượu, bia bằng máy bán hàng tự động. 12. Kinh doanh, tàng trữ, vận chuyển rượu, bia giả, nhập lậu, không bảo đảm chất lượng, không rõ nguồn gốc, xuất xứ, nhập lậu rượu, bia. 13. Các hành vi bị nghiêm cấm khác liên quan đến rượu, bia do luật định. Hỏi: Việc ép người khác uống rượu bia hiện vẫn xảy ra khá phổ biến ở một số địa phương. Người được mời thường có tâm lý sợ mất lòng nên khi được mời thì ít khi từ chối. Vậy, việc ép người khác uống rượu bia gây thiệt hại có phải bồi thường không? Trả lời: - Hiện nay, cùng với nạn cờ bạc. Vào các dịp lễ, tết nhiều người tập trung uống rượu, bia. tại Khoản 1 Điều 5 Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia năm 2019 đã có quy định cấm đối với hành vi xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia. - Bênh cạnh đó Điều 596 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Bồi thường thiệt hại do người dùng chất kích thích gây ra như sau: 1. Người do uống rượu hoặc do dùng chất kích thích khác mà lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi, gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường. 2. Khi một người cố ý dùng rượu hoặc chất kích thích khác làm cho người khác lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Từ quy định trên có thể thấy, hành vi cố ý ép người khác uống rượu, làm người đó mất khả năng nhận thức và gây ra thiệt hại thì người phải bồi thường chính là người ép người khác uống rượu, bia. Trường hợp tự nguyện uống rượu bia thì người uống rượu sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Hỏi: Tôi có một cửa hàng kinh doanh rượu ngoại, gần đây do nhu cầu khách hàng đông nên tôi muốn tuyển thêm nhân viên bán hàng. Có một người 17 tuổi đến xin làm việc. Vậy tôi có thể thuê người này làm nhân viên bán rượu tại cửa hàng của mình hay không ? Trả lời : Theo Điều 5 Luật phòng chống tác hại rượu bia năm 2019 quy định các hành vi cấm như sau: - Xúi giục, kích động, lôi kéo, ép buộc người khác uống rượu, bia. - Người chưa đủ 18 tuổi uống rượu, bia. - Bán, cung cấp, khuyến mại rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi. - Sử dụng lao động là người chưa đủ 18 tuổi trực tiếp tham gia vào việc sản xuất, mua bán rượu, bia…. Căn cứ quy định nêu trên việc sử dụng lao động người dưới 18 tuổi để bán rượu thuộc trường hợp vi phạm điều cấm của Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia do đó anh không thể thuê người này để làm nhân viên bán rượu tại của hàng của mình. Hỏi: Mục đích, yêu cầu trong thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia được quy định cụ thể như thế nào? Trả lời: Điều 6 Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia quy định về mục đích, yêu cầu trong thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu bia cụ thể như sau: + Thông tin, giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức, định hướng hành vi, thay đổi thói quen có hại để phòng, chống tác hại của rượu, bia đối với sức khỏe con người, gia đình, cộng đồng, an toàn giao thông, trật tự, an toàn xã hội, kinh tế và các vấn đề xã hội khác. + Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia phải bảo đảm các yêu cầu sau đây: - Chính xác, khách quan và khoa học; - Thường xuyên; phù hợp, dễ tiếp cận và hiệu quả đối với từng đối tượng, trình độ, lứa tuổi, giới tính; phù hợp với truyền thống, văn hóa, bản sắc dân tộc, tôn giáo và phong tục tập quán; chú trọng đối với học sinh, sinh viên, thanh niên, phụ nữ mang thai và cá nhân, tổ chức, hộ gia đình sản xuất rượu thủ công. Hỏi: Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia được thực hiện dưới hình thức nào? Trả lời: Tại Điều 8 Luật Phòng chống tác hại của rượu, bia quy định hình thức thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống tác hại của rượu, bia được thực hiện bằng các hình thức sau: 1. Thực hiện trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp, phổ biến tài liệu; 2. Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, mạng Internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; 3. Thi tuyên truyền, tìm hiểu; 4. Chiến dịch truyền thông; 5. Lồng ghép trong việc giảng dạy, học tập tại cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao; trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, cộng đồng và các thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở. Hỏi: Trong công viên giải trí dành cho trẻ em, có một nhóm thanh niên tập trung ngồi uống bia, hình ảnh này không chỉ gây mất mỹ quan mà còn ảnh hưởng đến nhận thức của trẻ nhỏ. Trong trường hợp này, hành vi của nhóm thanh niên đó có vi phạm quy định của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia hay không ? Trả lời : Điều 10 Luật Phòng, chống tác tại của rượu bia quy định không uống rượu, bia tại các địa điểm sau : 1. Cơ sở y tế. 2. Cơ sở giáo dục trong thời gian giảng dạy, học tập, làm việc. 3. Cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi. 4. Cơ sở cai nghiện, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ phạm nhân và cơ sở giam giữ khác. 5. Cơ sở bảo trợ xã hội. 6. Nơi làm việc của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập trong thời gian làm việc, trừ địa điểm được phép kinh doanh rượu, bia. 7. Các địa điểm công cộng theo quy định của Chính phủ. Căn cứ quy định nêu trên, hành vi ngồi uống rượu trong công viên dành cho trẻ em của nhóm thanh niên đã vi phạm quy định cấm uống rượu, bia tại cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi tại khoản 3 Điều 10 Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia. Hỏi: Sắp tới, công ty tôi sẽ cho ra mắt sản phẩm bia mới có độ cồn dưới 5.5 độ. Phòng marketing của tôi được giao nhiệm vụ xây dựng chương trình quảng cáo cho sản phẩm. Tôi muốn biết pháp luật hiện hành quy định như thế nào về việc quảng cáo rượu, bia có độ cồn dưới 5.5 độ? Trả lời: Theo Điều 12 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định tổ chức, cá nhân thực hiện quảng cáo rượu, bia phải tuân thủ các quy định của Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia và quy định khác của pháp luật về quảng cáo. Quảng cáo không thể hiện các nội dung sau đây: a) Có thông tin, hình ảnh nhằm khuyến khích uống rượu, bia; thông tin rượu, bia có tác dụng tạo sự trưởng thành, thành đạt, thân thiện, hấp dẫn về giới tính; hướng đến trẻ em, học sinh, sinh viên, thanh niên, phụ nữ mang thai; b) Sử dụng vật dụng, hình ảnh, biểu tượng, âm nhạc, nhân vật trong phim, nhãn hiệu sản phẩm dành cho trẻ em, học sinh, sinh viên; sử dụng người chưa đủ 18 tuổi hoặc hình ảnh của người chưa đủ 18 tuổi trong quảng cáo rượu, bia. Không thực hiện quảng cáo trên các phương tiện quảng cáo trong trường hợp sau đây: - Sự kiện, phương tiện quảng cáo, sản phẩm dành cho người chưa đủ 18 tuổi, học sinh, sinh viên, thanh niên, phụ nữ mang thai; - Phương tiện giao thông; - Báo nói, báo hình ngay trước, trong và ngay sau chương trình dành cho trẻ em; trong thời gian từ 18 giờ đến 21 giờ hằng ngày, trừ trường hợp quảng cáo có sẵn trong các chương trình thể thao mua bản quyền tiếp sóng trực tiếp từ nước ngoài và trường hợp khác theo quy định của Chính phủ; - Phương tiện quảng cáo ngoài trời vi phạm quy định về kích thước, khoảng cách đặt phương tiện quảng cáo tính từ khuôn viên của cơ sở giáo dục, cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi. Quảng cáo phải có cảnh báo để phòng, chống tác hại của rượu, bia. Quảng cáo trên báo điện tử, trang thông tin điện tử, phương tiện điện tử, thiết bị đầu cuối và thiết bị viễn thông khác phải có hệ thống công nghệ chặn lọc, phần mềm kiểm soát tuổi của người truy cập để ngăn ngừa người chưa đủ 18 tuổi tiếp cận, truy cập, tìm kiếm thông tin về rượu, bia. Hỏi: Trường hợp hộ gia đình, cá nhân muốn nấu rượu bán kết hợp với chăn nuôi thì phải đảm bảo những điều kiện gì theo quy định của pháp luật hiện hành? Trả lời: Rượu thuộc nhóm hàng hóa mà Nhà nước hạn chế sản xuất, kinh doanh, sử dụng. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh rượu phải có giấy phép, trừ trường hợp sản xuất rượu thủ công tự tiêu dùng. Tùy theo nồng độ cồn của rượu sản xuất mà cơ sở sản xuất phải đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 15 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia. Đối với trường hợp các hộ gia đình, cá nhân sản xuất rượu để bán được quy định như sau: - Nếu cá nhân, hộ gia đình sản xuất rượu thủ công có độ cồn từ 5.5 độ trở lên nhằm mục đích kinh doanh thì điều kiện cấp phép bao gồm: Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoặc hộ kinh doanh được thành lập theo quy định của pháp luật; Bảo đảm điều kiện về an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật. - Nếu hộ gia đình, cá nhân sản xuất rượu thủ công có độ cồn từ 5.5 độ trở lên bán cho cơ sở có giấy phép sản xuất rượu để chế biến lại thì điều kiện cấp phép gồm: Có hợp đồng mua bán với cơ sở có giấy phép sản xuất rượu và có đăng ký với UBND cấp xã nơi cơ sở sản xuất; Bảo đảm điều kiện về an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật. Đối chiếu với quy định nêu trên và căn cứ vào mục đích sản xuất mà các hộ gia đình, cá nhân cần làm các thủ tục cần thiết để xin cấp phép sản xuất rượu đúng quy định. Hỏi: Hiện nay pháp luật có quy định việc cấm bán hàng qua màng điện tử đối với rượu bia hay không? Trả lời: Hiện nay, Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia không cấm bán mặt hàng này qua mạng điện tử, tuy nhiên Luật này cũng quy định chặt chẽ điều kiện bán rượu, bia theo hình thức thương mại điện tử. Cụ thể, Điều 16 của Luật này quy định cụ thể như sau: - Phải là cơ sở đã được cấp phép mua bán rượu có độ cồn từ 5.5 độ trở lên; - Đáp ứng các điều kiện về quản lý kinh doanh rượu có độ cồn dưới 5.5 độ; - Rượu, bia phải bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa và an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật; - Đáp ứng điều kiện theo quy định của pháp luật về thương mại điện tử; - Thực hiện biện pháp theo quy định của Chính phủ để ngăn ngừa người chưa đủ 18 tuổi tiếp cận, truy cập, tìm kiến thông tin và mua rượu, bia; - Áp dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Hỏi: Gia đình tôi là trưởng họ nên thường xuyên tổ chức các buổi giỗ họ, cúng giỗ ông, bà, tổ tiên, họp họ, gặp mặt con cháu và đều tổ chức ăn uống, liên hoan có uống rượu. Để tiết kiệm chi phí và tránh mua phải rượu giả, rượu kém chất lượng, tôi dự định tự nấu rượu để phục vụ các buổi ăn uống này. Vậy việc nấu rượu của gia đình tôi trong trường hợp này có phải xin phép hay không? Trả lời: Theo quy định của Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia, việc hộ gia đình, cá nhân sản xuất rượu thủ công không nhằm mục đích kinh doanh (như để dùng trong gia đình, dòng họ, để tặng cho…) thì không phải xin phép cơ quan chức năng. Tuy nhiên, cá nhân, hộ gia đình đó phải có bản kê khai gửi UBND cấp xã về lượng rượu được sản xuất, phạm vi sử dụng, cam kết bảo đảm an toàn thực phẩm và không bán rượu ra thị trường theo mẫu do Bộ trưởng Bộ Công thương quy định. Việc kê khai không phải nộp phí, lệ phí. Ủy ban nhân dân các cấp hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luạt về an toàn thực phẩm; báo cáo sản lượng và tình hình bảo đảm an toàn thực phẩm đối với sản xuất rượu thủ công không nhằm mục đích kinh doanh trên địa bàn. Hỏi: Theo quy định của pháp luật hiện hành những địa điểm như căng tin của bệnh viện, căng tin của các trường đại học, cao đăng có được bán rượu bia không? Trả lời: Điều 19 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia có quy định 06 nhóm địa điểm không bán rượu, bia bao gồm: 1. Cơ sở y tế. 2. Cơ sở giáo dục. 3. Cơ sở, khu vực chăm sóc, nuôi dưỡng, vui chơi, giải trí dành cho người chưa đủ 18 tuổi. 4. Cơ sở cai nghiện, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở giam giữ phạm nhân và cơ sở giam giữ khác. 5. Cơ sở bảo trợ xã hội. 6. Nơi làm việc của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập, trừ địa điểm được phép kinh doanh rượu, bia. Hỏi: Gần đây, báo chí thường xuyên đưa tin các vụ tai nạn giao thông thảm khốc do lái xe sử dụng rượu, bia. Xin hỏi Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định thế nào để phòng ngừa tai nạn giao thông liên quan đến sử dụng rượu, bia? Trả lời: Điều 21 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 quy định về phòng ngừa tai nạn giao thông liên quan đến sử dụng rượu bia như sau: 1. Người điều khiển phương tiện giao thông không uống rượu, bia trước và trong khi tham gia giao thông. 2. Người đứng đầu cơ sở kinh doanh vận tải, chủ phương tiện giao thông vận tải có trách nhiệm chủ động thực hiện biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn người điều khiển phương tiện vận tải uống rượu, bia ngay trước và trong khi tham gia giao thông. 3. Cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm kiểm tra nồng độ cồn trong máu, hơi thở của người điều khiển phương tiện giao thông đang tham gia giao thông hoặc gây ra tai nạn giao thông. 4. Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm xây dựng nội dung và tổ chức việc đào tạo về phòng, chống tác hại của rượu, bia trong chương trình đào tạo cấp bằng, chứng chỉ, giấy phép điều khiển phương tiện giao thông thuộc phạm vi quản lý. Hỏi: Việc sử lý vi phạm hành chính đối với hành vi sử dụng rượu, bia khi lái xe ô tô tham gia giao thông được quy định cụ thể như thế nào? Trả lời: Theo quy định tại điểm c khoản 6, điểm c khoản 8 và điểm a, điểm b khoản 10 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô sẽ bị xử phạt vi phạm vi hành chính khi điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Theo đó mức phạt 6-8 triệu đồng đối với hành vi điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở. Đồng thời bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 10 đến 12 tháng; Phạt tiền từ 16-18 triệu đồng điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 16 tháng đến 18 tháng. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở hoặc không chấp hành yêu cầu kiểm tra về nồng độ cồn của người thi hành công vụ và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 đến 24 tháng. Hỏi: Người điều khiển xe môtô mà trong máu hoặc hơi thở có nông độ cồn sẽ bị sử phạt như thế nào? Trả lời: Theo quy định tại điểm c khoản 6, điểm c khoản 7 và điểm e khoản 8 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì: - Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở. Đồng thời bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 10 đến 12 tháng. - Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam đến 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,25 miligam đến 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 16 tháng đến 18 tháng. - Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở và bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 đến 24 tháng. Hỏi: Theo khuyến cáo của các cơ quan chức năng rượu, bia đều chứa chất cồn và xếp vào chất gây ung thư, có tác động tiêu cực đến sức khỏe con người. Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia quy định các biện pháp gì để phòng ngừa, can thiệp và giảm tác hại của việc uống rượu, bia đối với sức khỏe? Trả lời: Điều 22 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định các biện pháp phòng ngừa, can thiệp và giảm tác hại của việc uống rượu, bia đối với sức khỏe bao gồm: - Tư vấn về phòng, chống tác hại của rượu, bia cho người đến khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế; - Sàng lọc, phát hiện sớm yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe của người uống rượu, bia; người mắc bệnh, rối loạn chức năng do uống rượu, bia; người nghiện rượu, bia; - Can thiệp giảm tác hại cho người có yếu tố nguy cơ đối với sức khỏe, phụ nữ mang thai có hội chứng hoặc nguy cơ ngộ độc rượu ở thai nhi; phòng, chống nghiện và tái nghiện rượu, bia; - Chẩn đoán, điều trị, phục hồi chức năng cho người mắc bệnh, rối loạn chức năng có liên quan đến uống rượu, bia. Hỏi: Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định biện pháp gì để phòng ngừa tác hại của rượu bia tại cộng đồng? Trả lời: Điều 24 Luật Phòng chống tác hại của rượu, bia quy định 05 nhóm biện pháp phòng ngừa tác hại của rượu bia tại cộng đồng bao gồm: 1. Tuyên truyền, vận động các gia đình, thành viên thuộc tổ chức, cộng đồng tham gia tuyên truyền và thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia. 2. Lồng ghép hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia vào các phong trào, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao, xây dựng đời sống văn hóa và hoạt động khác tại cộng đồng. 3. Vận động, khuyến khích quy định trong hương ước, quy ước việc hạn chế hoặc không uống rượu, bia tại đám cưới, đám tang, lễ hội trên địa bàn dân cư. 4. Vận động cá nhân, tổ chức không sử dụng sản phẩm rượu, bia không rõ nguồn gốc, xuất xứ, chưa được kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. 5. Phát hiện, phản ánh người say rượu, bia, người nghiện rượu, bia để cảnh báo, phòng ngừa, xử lý hành vi gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Hỏi: Trong nhiều trường hợp, phụ nữ và trẻ em trở thành nạn nhân của rượu, bia. Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định các biện pháp chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ trẻ em, phụ nữ và các đối tượng yếu thế khác để phòng ngừa, giảm tác hại của rượu, bia như thế nào? Trả lời: Điều 25 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định 02 nhóm biện pháp chăm sóc, hỗ trợ, bảo vệ trẻ em, phụ nữ và các đối tượng yếu thế khác để phòng ngừa, giảm tác hại của rượu, bia bao gồm: 1. Tư vấn cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, phụ nữ mang thai, phụ nữ đang cho con bú về tác hại của rượu, bia đối với thai nhi, trẻ em; cho người bị ảnh hưởng bởi tác hại của rượu, bia khi sử dụng dịch vụ tại cơ sở y tế, cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình. 2. Can thiệp, hỗ trợ, áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc, bảo đảm an toàn theo quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đối với trẻ em, phụ nữ và các đối tượng yếu thế khác để không bị ảnh hưởng bởi tác hại của rượu, bia; Ngoài ra điều này con quy định các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật. Các biện pháp nêu trên phải được lồng ghép trong chương trình, kế hoạch, hoạt động có liên quan đến trẻ em, phụ nữ và các đối tượng yếu thế khác. Hỏi: Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định cấm bán rượu cho người chưa đủ 18 tuổi. Xin hỏi, nếu người bán hàng vẫn thực hiện bán rượu, bia cho các đối tượng ngày thì bị xử lý như thế nào? Trả lời: Hành vi bán rượu, bia cho người chưa đủ 18 tuổi bị nghiêm cấm theo quy định tại Điều 5 Luật Phòng chống tác hại của rượu, bia. Vì vậy, nếu tổ chức hay cá nhân vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 28 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia cụ thể như sau: Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Hỏi: Tôi mua phải một chai rượu giả ở cửa hàng tạp hóa gần khu vực gia đình tôi đang sinh sống. Trong trường hợp này của hàng đó có phải nhận lại chai rượu và hoàn tiền lại cho tôi không? Trả lời: Căn cứ Điều 32 Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 thì cơ sở kinh doanh rượu, bia có trách nhiệm: “Thu hồi và xử lý rượu, bia không bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm do cơ sở mình sản xuất, mua bán theo quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm”. Trong trường hợp này, cửa hàng tạp hóa phải có trách nhiệm thu hồi và xử lý sản phẩm. Ngoài ra, nếu gây thiệt hại thì còn phải bồi thường hoặc bi xử lý theo quy định của pháp luật. Hỏi: Trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp những người vì nghiện rượu mà mắc trọng bệnh dẫn đến tử vong, một số trường hợp say rượu gây tai nạn giao thông nghiêm trọng gây thương tật nặng cho bản thân hoặc người khác. Xin hỏi, Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định gia đình có trách nhiệm như thế nào trong phòng, chống tác hại của rượu, bia? Trả lời: Theo Điều 34 Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia quy định, gia đình có trách nhiệm trong phòng, chống tác hại của rượu, bia như sau: - Giáo dục, giám sát, nhắc nhở thành viên chưa đủ 18 tuổi không uống rượu, bia, các thành viên khác trong gia đình hạn chế uống rượu, bia; động viên, giúp đỡ người nghiện rượu, bia trong gia đình cai nghiện rượu, bia. - Hướng dẫn các thành viên trong gia đình kỹ năng từ chối uống rượu, bia; kỹ năng nhận biết, ứng xử, xử trí khi gặp người say rượu, bia, người nghiện rượu, bia và thực hiện các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia. - Tham gia với các cơ quan, tổ chức và cộng đồng thực hiện phòng, chống tác hại của rượu, bia. III. MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI (Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/11/2019) Hỏi: Nhà bà A gần sân vận động của phường. Vào mùa hè, nắm được nhu cầu của người dân tham gia tập thể dục thể thao trong sân vận động, bà A đã mở cửa hàng bán nước mía kiếm tiền. Do lượng khách ngày càng đông, bà A đã mở rộng phạm vi cửa hàng sang cả sân chơi của khu tập thể gần đó và lấn chiếm đường đi chung. Hành vi của bà A bị chính quyền ra quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai. Bà A muốn biết rõ hơn quy định của pháp luật về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai? Trả lời: Theo Điều 4, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau: - Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là 02 năm. - Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính: a) Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc theo quy định dưới đây thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm; b) Đối với hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện theo quy định thì thời hiệu được tính từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm; c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân do người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính chuyển đến thì thời hiệu xử phạt được áp dụng theo quy định tính đến thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. - Các hành vi vi phạm được xác định là đã kết thúc và thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm như sau: a) Hành vi chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê đất trả tiền một lần, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, thuê đất trả tiền một lần, thừa kế, nhận thế chấp, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không được giao dịch hoặc không đủ điều kiện giao dịch về quyền sử dụng đất theo quy định mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản giao dịch đã ký; thời điểm kết thúc hành vi giao dịch về quyền sử dụng đất là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết; b) Hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê nhưng không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật hoặc đủ điều kiện nhưng chưa được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) cho phép mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản chuyển nhượng đã ký; thời điểm kết thúc hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết; c) Hành vi người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nhận chuyển quyền sử dụng đất ở chưa có nhà ở không thuộc dự án phát triển nhà ở hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải là đất ở nằm ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp hoặc thuê đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản chuyển quyền đã ký; thời điểm kết thúc hành vi chuyển quyền sử dụng đất là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết; d) Hành vi chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư đã được thực hiện nhưng quyền sử dụng đất không được chuyển nhượng hoặc không đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của pháp luật mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất đã ký; thời điểm kết thúc hành vi chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết; đ) Hành vi bán, mua tài sản gắn liền với đất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm không đủ điều kiện quy định tại Điều 189 của Luật đất đai nhưng các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản bán, mua tài sản đã ký; thời điểm kết thúc hành vi bán, mua tài sản là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết; e) Các hành vi hủy hoại đất; di chuyển, làm sai lệch hoặc hư hỏng mốc chỉ giới sử dụng đất, mốc địa giới hành chính; tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất đã kết thúc trước thời điểm phát hiện hành vi vi phạm. Thời điểm kết thúc của các hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm đã thực hiện xong các hoạt động của hành vi vi phạm đó; g) Hành vi vi phạm điều kiện hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai mà hoạt động dịch vụ đã thực hiện xong và các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản thực hiện dịch vụ đã ký kết; thời điểm kết thúc hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm ký văn bản thanh lý hợp đồng hoặc văn bản thực hiện dịch vụ đã ký kết; h) Hành vi cung cấp thông tin không chính xác phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai; thời điểm kết thúc hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm đã thực hiện xong việc cung cấp thông tin không chính xác cho tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật; i) Hành vi của chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản không nộp hồ sơ để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc không cung cấp, cung cấp không đầy đủ giấy tờ cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất tự nộp hồ sơ cấp Giấy chứng nhận theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản; nhưng sau thời hạn quy định chủ đầu tư đã khắc phục sai phạm. Thời điểm kết thúc hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm đã nộp hồ sơ hoặc đã cung cấp đầy đủ giấy tờ cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất để tự nộp hồ sơ cấp Giấy chứng nhận theo quy định; k) Trường hợp hành vi vi phạm hành chính quy định nêu trên mà người có hành vi vi phạm không chứng minh được thời điểm kết thúc hành vi vi phạm thì được xác định là hành vi vi phạm còn trong thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính. - Các hành vi vi phạm hành chính về đất đai quy định nêu trên mà không thuộc trường hợp hủy hoại đất là hành vi làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất hoặc gây ô nhiễm đất mà làm mất hoặc giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định được xác định là hành vi vi phạm đang được thực hiện. - Trong thời hạn quy định nêu trên, nếu tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt của cơ quan, người có thẩm quyền thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt. Hỏi. Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm những hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả như thế nào? Trả lời: Theo quy định tại Điều 5, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm: - Các hình thức xử phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền. - Hình thức xử phạt bổ sung: a) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; b) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai từ 06 tháng đến 09 tháng hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai từ 09 tháng đến 12 tháng. - Các biện pháp khắc phục hậu quả quy định bao gồm: a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương để quy định mức độ khôi phục đối với từng loại vi phạm theo quy định; b) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm theo quy định; c) Buộc thực hiện thủ tục hành chính về đất đai; d) Buộc trả lại đất sử dụng không đúng quy định; đ) Buộc chấm dứt hợp đồng thế chấp bằng quyền sử dụng đất; e) Buộc hoàn trả tiền chuyển nhượng, tiền cho thuê, tiền cho thuê lại đất không đúng quy định của pháp luật trong thời gian sử dụng đất còn lại; g) Buộc hoàn thành nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đai; h) Buộc hoàn thành việc đầu tư xây dựng theo đúng quy định; i) Buộc chấm dứt hợp đồng mua, bán, cho thuê tài sản gắn liền với đất không đủ điều kiện quy định; k) Buộc sử dụng đất đúng theo mục đích được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất; l) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của chỉ giới sử dụng đất, mốc địa giới hành chính như trước khi vi phạm; m) Buộc cung cấp hoặc cung cấp lại thông tin, giấy tờ, tài liệu theo yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai; n) Buộc thực hiện đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản đối với trường hợp Cho thuê tài sản gắn liền với đất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm mà không đủ điều kiện. o) Buộc nộp Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp vi phạm quy định về giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất; p) Hủy bỏ kết quả thực hiện thủ tục hành chính về đất đai đã thực hiện đối với trường hợp sử dụng giấy tờ giả để thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan đến đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; q) Xử lý tài sản tạo lập không hợp pháp đối với trường hợp phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với trường hợp bán tài sản gắn liền với đất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm khi tài sản gắn liền với đất thuê được tạo lập không hợp pháp hoặc chưa hoàn thành việc xây dựng theo đúng quy hoạch xây dựng chi tiết và dự án đầu tư đã được phê duyệt, chấp thuận r) Thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai đối với các trường hợp phải thu hồi đất quy định. - Việc áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính và thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp có giao dịch về quyền sử dụng đất như sau: a) Trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trước khi chuyển quyền sử dụng đất thì bên chuyển quyền sử dụng đất bị xử phạt vi phạm hành chính và phải thực hiện biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm (nếu khi xử phạt hành vi chuyển quyền buộc bên nhận chuyển quyền phải trả lại đất cho bên chuyển quyền) theo quy định. Bên nhận chuyển quyền sử dụng đất phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả còn lại đối với từng trường hợp vi phạm theo quy định; b) Trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với cả hai bên chuyển đổi quyền sử dụng đất. Trường hợp chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với bên nhận chuyển quyền sử dụng đất. Trường hợp cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất đã cho thuê, đã thế chấp. Ngoài việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm này, bên chuyển quyền và bên nhận chuyển quyền còn phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng trường hợp cụ thể theo quy định. Hỏi: Năm 2020, chị M có mua căn hộ tập thể cũ, trong quá trình hoàn thiện hồ sơ, chị M đã khai báo không trung thực việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận và việc chuyển đổi quyền sử dụng đất bị sai lệch song chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Xin hỏi hành vi của chị M bị xử phạt vi phạm hành chính như thế nào? Trả lời: Theo quy định tại Điều 35, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, vi phạm quy định về giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất bị xử phạt như sau: + Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất mà không thuộc các trường hợp quy định dưới đây. + Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với trường hợp khai báo không trung thực việc sử dụng đất hoặc tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận và việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất bị sai lệch mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. + Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với trường hợp sử dụng giấy tờ giả trong thực hiện thủ tục hành chính và các công việc khác liên quan đến đất đai mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. - Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong các trường hợp quy định nêu trên. Hỏi: Bà Nguyễn Thị A có hỏi ở nơi bà sinh sống có một số hộ gia đình đang dùng đất trồng lúa vào mục đích khác không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Vậy những trường hợp này bị xử phạt vi phạm hành chính như thế nào? Và biện pháp khắc phục hậu quả ra sao? Trả lời: Theo Điều 9, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP thì việc sử dụng đất trồng lúa vào mục đích khác khi không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép sẽ bị xử lý vi phạm hành chính như sau: 1. Chuyển đất trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, đất trồng rừng (trừ trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 14 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 11 Điều 2 của Nghị định số 01/2017/NĐ-CP) thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép dưới 0,5 héc ta; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 01 héc ta đến dưới 03 héc ta; d) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 03 héc ta trở lên. 2. Chuyển đất trồng lúa sang đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép dưới 0,1 héc ta; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; d) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 01 héc ta đến dưới 03 héc ta; đ) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 03 héc ta trở lên. 3. Chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép dưới 0,01 héc ta; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,01 héc ta đến dưới 0,02 héc ta; c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,02 héc ta đến dưới 0,05 héc ta; d) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; đ) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; e) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; g) Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 01 héc ta đến dưới 03 héc ta; h) Phạt tiền từ 120.000.000 đồng đến 250.000.000 đồng nếu diện tích đất chuyển mục đích trái phép từ 03 héc ta trở lên. 4. Chuyển đất trồng lúa sang đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị thì hình thức và mức xử phạt bằng hai (02) lần mức phạt quy định tại khoản 3 Điều này. 5. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và khoản 4 Điều này, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này; b) Buộc đăng ký đất đai theo quy định đối với trường hợp có đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 22 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; c) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm trong các trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này; số lợi bất hợp pháp được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 7 của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP. Hỏi: Vào tháng 2/2020, gia đình tôi thấy gia đình ông K tự ý san lấp đất cao khoảng 1m, trên diện tích rất rộng. Gia đình tôi đã báo cáo UBND xã. Tôi xin hỏi trường hợp tự ý san lấp đất của gia đình ông K khi chưa được cơ quan chức năng cho phép có vi phạm pháp luật hay không? Và mức xử phạt như thế nào? Trả lời: Căn cứ vào Điểm a, Khoản 3, Điều 3, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP thì hủy hoại đất được hiểu là hành vi làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất hoặc gây ô nhiễm đất mà làm mất hoặc giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định, trong đó làm biến dạng địa hình trong các trường hợp: thay đổi độ dốc bề mặt đất; hạ thấp bề mặt đất do lấy đất mặt dùng vào việc khác hoặc làm cho bề mặt đất thấp hơn so với thửa đất liền kề; san lấp đất có mặt nước chuyên dùng, kênh, mương tưới, tiêu nước hoặc san lấp nâng cao bề mặt của đất sản xuất nông nghiệp so với các thửa đất liền kề; trừ trường hợp cải tạo đất nông nghiệp thành ruộng bậc thang và hình thức cải tạo đất khác phù hợp với mục đích sử dụng đất được giao, được thuê hoặc phù hợp với dự án đầu tư đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất phê duyệt hoặc chấp thuận. Như vậy, trường hợp san lấp đất cao hơn 1m so với mặt đất chung khi chưa được phép của ông K là hành vi hủy hoại đất. Mức xử phạt vi phạm hình chính khi hủy hoại đất đối với trường hợp làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất của ông K được quy định tại Khoản 1, Điều 15, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất bị hủy hoại dưới 0,05 héc ta; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nếu diện tích đất bị hủy hoại từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng nếu diện tích đất bị hủy hoại từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; d) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng nếu diện tích đất bị hủy hoại từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; đ) Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng nếu diện tích đất bị hủy hoại từ 01 héc ta trở lên. Biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi hủy hoại đất đó là: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Hỏi: Gia đình nhà bà Lan đang xây dựng nhà ở nên đổ vật liệu xây dựng lên phần diện tích đất đang trồng rau của gia đình nhà tôi. Gia đình tôi đã nhiều lần lên tiếng không đồng ý về việc đổ vật liệu xây dựng gây cản trở cũng như thiệt hại cho việc sử dụng đất của gia đình tôi nhưng bà Lan vẫn cố tình đổ cát và đá. Tôi đã làm đơn lên UBND xã đề nghị giải quyết. Tôi muốn biết rõ hơn quy định của pháp luật về mức xử phạt vi phạm hành chính khi gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác và biện pháp khắc phục? Trả lời: Theo Điều 16, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định khi gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác thì bị xử phạt như sau: 1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp đưa vật liệu xây dựng hoặc các vật khác lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình mà gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác. 2. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với trường hợp đưa chất thải, chất độc hại lên thửa đất của người khác hoặc thửa đất của mình gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác. 3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với trường hợp đào bới, xây tường, làm hàng rào gây cản trở hoặc thiệt hại cho việc sử dụng đất của người khác. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm. Hỏi: Người sử dụng đất và người được giao đất để quản lý có phải đăng ký không, trường hợp không đăng ký thì bị xử lý như thế nào? Trả lời: Theo quy định tại Điều 95, Luật Đất đai 2013, các trường hợp bắt buộc phải đăng ký đất đai: 1. Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu. 2. Đăng ký đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gồm đăng ký lần đầu và đăng ký biến động, được thực hiện tại tổ chức đăng ký đất đai thuộc cơ quan quản lý đất đai, bằng hình thức đăng ký trên giấy hoặc đăng ký điện tử và có giá trị pháp lý như nhau. 3. Đăng ký lần đầu được thực hiện trong các trường hợp sau đây: a) Thửa đất được giao, cho thuê để sử dụng; b) Thửa đất đang sử dụng mà chưa đăng ký; c) Thửa đất được giao để quản lý mà chưa đăng ký; d) Nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chưa đăng ký Như vậy Người sử dụng đất và người được giao đất để quản lý phải tiến hành đăng ký đất theo quy định pháp luật. Nếu không đăng ký thì sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 17, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP Không đăng ký đất đai sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi này và cụ thể đó là: 1. Trường hợp không thực hiện đăng ký đất đai lần đầu theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 95 của Luật Đất đai tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng nếu trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày 05/01/2020 mà không thực hiện đăng ký đất đai lần đầu; b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng nếu quá thời hạn 24 tháng kể từ ngày 05/01/2020 mà không thực hiện đăng ký đất đai lần đầu. 2. Trường hợp không thực hiện đăng ký biến động đất đai theo quy định tại các điểm a, b, h, i, k và l khoản 4 Điều 95 của Luật Đất đai tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng nếu trong thời gian 24 tháng kể từ ngày quá thời hạn quy định tại khoản 6 Điều 95 của Luật Đất đai mà không thực hiện đăng ký biến động; b) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu quá thời hạn 24 tháng kể từ ngày quá thời hạn quy định tại khoản 6 Điều 95 của Luật Đất đai mà không thực hiện đăng ký biến động. 3. Trường hợp không thực hiện đăng ký đất đai lần đầu, không thực hiện đăng ký biến động đất đai tại khu vực đô thị thì mức xử phạt bằng 02 lần mức xử phạt đối với từng trường hợp tương ứng theo quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này. 4. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc người đang sử dụng đất trong các trường hợp không thực hiện đăng ký đất đai lần đầu, không thực hiện đăng ký biến động đất đai phải làm thủ tục đăng ký đất đai theo quy định. Hỏi: Nhà bà Nga ở sát ngay khu đất chưa sử dụng của UBND xã nên lâu ngày bà Nga đã lấn sang một phần diện tích đất. UBND xã đã mời bà Nga lên làm việc về hành vi lấn, chiếm đất. Bà Nga muốn biết rõ quy định của pháp luật về việc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi lấn, chiếm đất? Cách khắc phục hậu quả như thế nào? Trả lời: Theo Điều 14 của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, hình thức và mức xử phạt vi phạm hành chính về hành vi lấn, chiếm đất như sau: 1. Trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta; b) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; c) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; d) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; đ) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên. 2. Trường hợp lấn, chiếm đất nông nghiệp không phải là đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; c) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; d) Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; đ) Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên. 3. Trường hợp lấn, chiếm đất nông nghiệp là đất trồng lúa, đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất tại khu vực nông thôn, thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,02 héc ta; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,02 héc ta đến dưới 0,05 héc ta; c) Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; d) Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; đ) Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; e) Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng đối với diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên. 4. Trường hợp lấn, chiếm đất phi nông nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này tại khu vực nông thôn thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng nếu diện tích đất lấn, chiếm dưới 0,05 héc ta; b) Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng nếu diện tích đất lấn, chiếm từ 0,05 héc ta đến dưới 0,1 héc ta; c) Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng nếu diện tích đất lấn, chiếm từ 0,1 héc ta đến dưới 0,5 héc ta; d) Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng nếu diện tích đất lấn, chiếm từ 0,5 héc ta đến dưới 01 héc ta; đ) Phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng nếu diện tích đất lấn, chiếm từ 01 héc ta trở lên. 5. Trường hợp lấn, chiếm đất chưa sử dụng, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp (trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này) tại khu vực đô thị thì mức xử phạt bằng 02 lần mức xử phạt đối với loại đất tương ứng quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này và mức phạt tối đa không quá 500.000.000 đồng đối với cá nhân, không quá 1.000.000.000 đồng đối với tổ chức. 6. Trường hợp lấn, chiếm đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn công trình và đất công trình có hành lang bảo vệ, đất trụ sở làm việc và cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước thì hình thức và mức xử phạt thực hiện theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực về hoạt động đầu tư xây dựng; khai thác, chế biến, kinh doanh khoáng sản làm vật liệu xây dựng, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; kinh doanh bất động sản, phát triển nhà ở, quản lý sử dụng nhà và công sở; trong lĩnh vực về giao thông đường bộ và đường sắt; trong lĩnh vực về văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; trong lĩnh vực về khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi; đê điều; phòng, chống lụt, bão; trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và các lĩnh vực chuyên ngành khác. 7. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm đối với các hành vi vi phạm tại các khoản 1, 2, 3, 4 và khoản 5 của Điều này và buộc trả lại đất đã lấn, chiếm; trừ trường hợp trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này; b) Buộc đăng ký đất đai theo quy định đối với trường hợp có đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 22 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP; c) Buộc thực hiện tiếp thủ tục giao đất, thuê đất theo quy định đối với trường hợp sử dụng đất khi chưa thực hiện xong thủ tục giao đất, thuê đất; d) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này; số lợi bất hợp pháp được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 7 của Nghị định này. Hỏi: Khi chuyển quyền, cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất mà không đủ điều kiện có bị xử phạt vi phạm hành chính hay không? Trả lời: Theo Điều 18, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP thì khi chuyển quyền, cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất khi không đủ điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính như sau: 1. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân khác thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp giữa các hộ gia đình, cá nhân mà không đủ một trong các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 188 và Điều 190 của Luật Đất đai; b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với trường hợp không đủ từ hai điều kiện trở lên quy định tại khoản 1 Điều 188 và Điều 190 của Luật Đất đai. 2. Trường hợp thế chấp bằng quyền sử dụng đất không đủ điều kiện thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với trường hợp không đủ một trong các điều kiện quy định khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai; b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với trường hợp không đủ từ hai điều kiện trở lên quy định tại khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai. 3. Trường hợp chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, góp vốn bằng quyền sử dụng đất không đ ủ điều kiện thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với khu vực nông thôn, từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với khu vực đô thị trong trường hợp không đủ một trong các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai; b) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với khu vực nông thôn, từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với khu vực đô thị trong trường hợp không đủ từ hai điều kiện trở lên quy định tại khoản 1 Điều 188 của Luật Đất đai. 4. Biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc bên nhận chuyển quyền sử dụng đất, bên thuê đất phải trả lại đất cho người sử dụng đất trước khi nhận chuyển quyền, thuê đất; trừ trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản này. Hỏi: Việc không sử dụng đất trồng cây hàng năm trong thời hạn 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm trong thời hạn 18 tháng liên tục, đất trồng rừng trong thời hạn 24 tháng liên tục có bị xử phạt hay không? Trả lời: Theo Khoản 1, Điều 32 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định hành vi không sử dụng đất trồng cây hàng năm trong thời hạn 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm trong thời hạn 18 tháng liên tục, đất trồng rừng trong thời hạn 24 tháng liên tục mà không thuộc trường hợp bất khả kháng quy định tại Điều 15 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì hình thức và mức xử phạt như sau: a) Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng nếu diện tích đất không sử dụng dưới 0,5 héc ta; b) Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng nếu diện tích đất không sử dụng từ 0,5 héc ta đến dưới 03 héc ta; c) Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng nếu diện tích đất không sử dụng từ 03 héc ta đến dưới 10 héc ta; d) Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng nếu diện tích đất không sử dụng từ 10 héc ta trở lên. IV. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2019 Hỏi: Giờ làm ca đêm của công ty tôi từ 22h00 đến 6h sáng hôm sau. Tuy nhiên, rất nhiều lần, quản lý lấy lý do hàng đã được cắt trước (đã báo lên cấp trên là hoàn thành, nhưng thực tế chưa xong) nên bắt công nhân phải thực hiện cho xong tới 6h30 mới được về. Nhiều người phản đối, tiền làm thêm 30 phút đó cũng không được thanh toán. Vậy việc làm của người quản lý đó có phải là cưỡng bức lao động không và tôi có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không? Trả lời: Khoản 7, Điều 3, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định cưỡng bức lao động là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc các thủ đoạn khác để ép buộc người lao động phải làm việc trái ý muốn của họ. Ngoài ra, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định: Thời gian làm thêm giờ là khoảng thời gian làm việc ngoài thời giờ làm việc bình thường theo quy định của pháp luật, thỏa ước lao động tập thể hoặc nội quy lao động. Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: a) Phải được sự đồng ý của người lao động; b) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; trường hợp áp dụng quy định thời giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 01 ngày; không quá 40 giờ trong 01 tháng; c) Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 01 năm, trừ trường hợp Người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong 01 năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp như: Sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm hàng dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; Sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước; Trường hợp giải quyết công việc đòi hỏi lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao mà thị trường lao động không cung ứng đầy đủ, kịp thời; Trường hợp phải giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn do tính chất thời vụ, thời điểm của nguyên liệu, sản phẩm hoặc để giải quyết công việc phát sinh do yếu tố khách quan không dự liệu trước, do hậu quả thời tiết, thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, thiếu điện, thiếu nguyên liệu, sự cố kỹ thuật của dây chuyền sản xuất; Trường hợp khác do Chính phủ quy định. Như vậy, nếu người lao động buộc phải làm thêm giờ nhưng họ không đồng ý, cho dù chỉ khoảng 30 phút, lại không được thanh toán số giờ làm thêm đó, thì có thể xem xét là trường hợp bị “cưỡng bức lao động” và người lao động có quyền áp dụng Điểm c, Khoản 2, Điều 35, Bộ luật Lao động năm 2019 để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động Hỏi: Vì mưu sinh chị Xuân nhận lời, ký hợp đồng đi làm công nhân khai thác đá ở một tỉnh miền núi dù biết đây là công việc nặng nhọc với phụ nữ. Khi đến công trường khai thác đá, nhận thấy công việc nổ mìn khai thác đá rất nguy hiểm, chị Xuân đã từ chối làm việc. Dù trước khi cho nổ mìn các công nhân đã được cách ly đứng xa nơi nổ mìn, nhưng nguy cơ bị đá văng vào người, hoặc đá lở từ trên đỉnh xuống gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe là rất có thể xảy ra (một công nhân làm cùng chị Xuân đã bị gãy chân vì bị đá văng phải). Chủ doanh nghiệp khai thác nói chị đã tự nguyện ký hợp đồng khai thác đá thì cứ thế mà làm, không được từ chối làm việc. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, chị Xuân có từ chối làm việc được không? Trả lời: Theo quy định tại điểm d, khoản 1, Điều 5, Bộ luật Lao động năm 2019 về quyền và nghĩa vụ của người lao động thì chị Xuân có quyền từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe trong quá trình thực hiện công việc. Việc khai thác đá nguy hiểm, đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe chị Xuân trong quá trình khai thác đá nên chị Xuân có quyền từ chối làm việc. Ngoài ra chị Xuân còn có những quyền và nghĩa vụ sau đây: 1. Các quyền của người lao động như chị Xuân: - Làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp; không bị phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc; - Hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể; - Thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động; - Từ chối làm việc nếu có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe trong quá trình thực hiện công việc; - Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; - Đình công; - Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2. Các nghĩa vụ của người lao động: - Thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và thỏa thuận hợp pháp khác; - Chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động; tuân theo sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động; - Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động. Hỏi: Tiến là sinh viên đi làm thêm, chủ cửa hàng có đưa Tiến ký văn bản Thỏa thuận công việc, trong đó ghi thông tin bên giao việc là chủ cửa hàng, bên nhận việc là Tiến, các công việc Tiến phải làm, thời gian làm hàng ngày, mức tiền công được nhận tính theo tuần, các trường hợp bị trừ tiền, thưởng tiền... Tiến làm ở đó được 3 tháng, vì Tiến bị ốm nên xin nghỉ 03 ngày. Khi đến làm lại thì chủ cửa hàng nói đã thuê người khác. Tiến đề nghị thanh toán nốt tiền công tuần cuối cùng cho Tiến nhưng chủ cửa hàng nói Tiến xin nghỉ đột xuất, cửa hàng mất tiền môi giới tìm người thay nên tiền đó bị trừ vào khoản tiền công của Tiến do gây thiệt hại cho cửa hàng. Còn dọa Tiến là bản Thỏa thuận công việc đó không phải hợp đồng lao động nên Tiến không có căn cứ để kiện được. Xin cho biết, chủ cửa hàng nói như vậy có đúng không? Trả lời: Theo quy định tại Điều 13, Bộ luật Lao động năm 2019 về Hợp đồng lao động thì: 1. Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động. 2. Trước khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động. Chiếu theo khoản 1, Điều 13 và trường hợp của Tiến mặc dù Tiến và chủ cửa hàng ký bản Thỏa thuận công việc, chứ không phải hợp đồng lao động, nhưng trong bản Thỏa thuận công việc có nội dung về việc làm có trả công, tiền lương, thời gian làm thì phải coi đó là Hợp đồng lao động. Và Tiến có thể căn cứ văn bản Thỏa thuận này để làm căn cứ khởi kiện chủ cửa hàng đã không làm đúng thỏa thuận trả tiền công ban đầu đã ký kết, bảo đảm quyền lợi cho mình. Hỏi. Khi đã hết hạn hợp đồng cũ mà chưa ký kết hợp lao động mới, người lao động vẫn tiếp tục làm việc cho người thuê lao động, thì quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 được xác định theo hợp đồng cũ hay mới? Trả lời: Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về các loại hợp đồng hợp pháp được pháp luật công nhận thì hiện nay có 02 loại hợp đồng: - Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng; - Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong thời gian không quá 36 tháng kể từ thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Trường hợp trên thuộc trường hợp giao kết hợp đồng lao động có xác định thời hạn. Và theo quy định tại khoản 2, Điều 20 Bộ luật Lao động năm 2019 thì: khi hợp đồng lao động có xác định thời hạn hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; trong thời gian chưa ký kết hợp đồng lao động mới thì quyền, nghĩa vụ và lợi ích của hai bên được thực hiện theo hợp đồng đã giao kết (tức theo quy định của hợp đồng cũ). Ngoài ra, luật cũng quy định: Nếu hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn mà hai bên không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết có thời hạn sẽ trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng lao động xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn, trừ hợp đồng lao động đối với người được thuê làm giám đốc trong doanh nghiệp có vốn nhà nước và trường hợp cụ thể như: - Khi sử dụng người lao động cao tuổi, hai bên có thể thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn; - Thời hạn của hợp đồng lao động đối với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không được vượt quá thời hạn của Giấy phép lao động. Khi sử dụng người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hai bên có thể thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn; - Phải gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ cho người lao động là thành viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đang trong nhiệm kỳ mà hết hạn hợp đồng lao động. Hỏi: Do bác Tú bệnh nặng, nhà lại neo người nên anh Khánh - con trai Bác làm đơn xin công ty cho nghỉ không lương 01 tháng về quê chăm mẹ. Bệnh bác Tú trở nặng nên anh Khánh đã ở quê thêm 10 ngày nữa và có gọi điện thông báo với công ty. Thực tế anh Khánh nghỉ 01 tháng 10 ngày, rồi trở lại làm việc nhưng không được công ty nhận lại với lý do anh Khánh nghỉ quá thời gian đã xin phép, như vậy là vi phạm kỷ luật công ty họ được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với anh Khánh. Trong trường hợp này, xin cho biết theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 công ty trả lời như vậy có đúng không? Trả lời: Việc anh Khánh xin nghỉ không lương 01 tháng, theo quy định của luật lao động là anh Khánh và công ty thỏa thuận tạm hoãn việc thực hiện hợp đồng lao động trong 01 tháng. Anh Khánh nghỉ thêm 10 ngày ở quê, sau đó đến công ty làm việc được không được nhận lại là công ty đã vi phạm quy định của luật lao động. Cụ thể: Điều 31, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định việc nhận lại người lao động hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động như sau: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, người lao động phải có mặt tại nơi làm việc và người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm công việc theo hợp đồng lao động đã giao kết nếu hợp đồng lao động còn thời hạn, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Như vậy. chưa quá 15 ngày kể từ ngày hết hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động anh Khánh đã có mặt tại công ty làm việc, anh Khánh đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, theo đó công ty không có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với anh Khánh. Anh Khánh có thể khiếu nại lên công ty hoặc khiếu kiện công ty để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Hỏi: Chị Thân đang kế toán cho công ty QC theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Nay chị Thân lập gia đình và chuyển đến thành phố khác sinh sống. Vậy theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, chị Thân có thể chấm dứt hợp đồng lao động với công ty QC được không? Trả lời: Theo khoản 1, Điều 35, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau: - Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; - Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; - Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng; - Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Chị Thân đang làm việc cho công ty QC theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, nếu muốn nghỉ việc, chị có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho công ty QC trước 45 ngày. Hỏi: Anh Hùng được tuyển dụng vào làm việc tại Công ty may mặc VT theo hợp đồng lao động thời hạn 36 tháng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, anh Hùng được tuyển dụng vào vị trí kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS). Tuy nhiên, đã 03 tháng kể từ khi vào công ty làm việc, anh lại phải làm công việc của công nhân bốc dỡ hàng hóa. Anh đã nhiều lần kiến nghị với Giám đốc công ty bố trí công việc theo đúng hợp đồng nhưng không được giải quyết cũng không được giải thích lý do. Anh Hùng đã nghỉ việc mà không báo trước cho công ty VT. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, việc tự ý nghỉ việc của anh Hùng có bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật không? Trả lời: Khoản 2, Điều 35, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 quy định: “Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này”. Điều 29, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Khi gặp khó khăn đột xuất do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, áp dụng biện pháp ngăn ngừa, khắc phục tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, sự cố điện, nước hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh thì người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động nhưng không được quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong 01 năm; trường hợp chuyển người lao động làm công việc khác so với hợp đồng lao động quá 60 ngày làm việc cộng dồn trong 01 năm thì chỉ được thực hiện khi người lao động đồng ý bằng văn bản.” Công ty VT đã điều chuyển anh Hùng làm công việc khác quá 60 ngày làm việc (03 tháng) mà không có được sự đồng ý bằng văn bản của anh Hùng. Do đó, anh Hùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần phải báo trước cho công ty VT. Việc nghỉ việc của anh Hùng không bị coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Hỏi: Công ty trách nhiệm hữu hạn Tuấn Cường ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với anh Bắc. Anh Bắc bị chấn thương đốt sống do tai nạn giao thông, đã nằm bệnh viện điều trị hơn 1 năm vẫn chưa bình phục nên Công ty Tuấn Cường quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với anh Bắc. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với anh Bắc là đúng hay sai? Trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động có được báo trước không? Trả lời: Điểm b, khoản 1 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực ngày 01/01/2021 quy định: “Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động” Anh Bắc làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn với công ty Tuấn Cường, bị tai nạn đã điều trị liên tục hơn 01 năm nhưng chưa bình phục. Do vậy, việc công ty Tuấn Cường có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với anh Bắc. Tuy nhiên, theo khoản 2, Điều 36, Bộ luật Lao động năm 2019 trong trường hợp này, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động Công ty Tuấn Cường phải báo trước cho anh Bắc biết trước ít nhất 45 ngày. Hỏi: Anh Dương có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với một công ty nước ngoài. Anh đã làm việc tại công ty Thái Bình này được 02 năm. Theo quy đinh của Bộ luật Lao động năm 2019, anh Dương muốn chấm dứt hợp đồng lao động có được không? Nếu được anh Dương có phải đền bù gì cho công ty không? Trả lời: Theo quy định tại khoản a, Điều 45, Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động làm việc theo hợp đồng không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bất cứ lúc nào không cần lí do và phải thông báo trước cho người sử dụng lao động trước 45 ngày. Như vậy anh Dương hoàn toàn có thể chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho công ty Thái Bình trước 45 ngày. Nếu anh Dương vi phạm về thời hạn báo trước thì không được hưởng trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho công ty nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước theo quy định tại Điều 40, Bộ luật Lao động năm 2019. Ngoài ra, nếu trong khoảng thời gian trước đó anh Dương được công ty Thái Bình chi trả các chi phí đào tạo thì anh Dương phải hoàn trả lại các chi phí đó khi chấm dứt hợp đồng lao động. Hỏi: Chị Thắm làm việc cho công ty Quang Minh theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn từ tháng 6 năm 2015. Đến tháng 7/2021, công ty Quang Minh tuyên bố phá sản và chuyển nhượng toàn bộ nhà máy và nhân sự cho công ty Đông Tiến. Chị Thắm bị công ty Đông Tiến cho thôi việc. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, chị Thắm được hưởng quyền lợi gì? Trả lời: Trong trường hợp này, hợp đồng lao động giữa chị Thắm và công ty Quang Minh bị chấm dứt theo trường hợp người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do chuyển nhượng quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (khoản 11, Điều 34, Bộ luật Lao động năm 2019) Chị Thắm dược hưởng trợ cấp mất việc làm theo quy định tại Điều 47, Bộ luật Lao động năm 2019: 1. Người sử dụng lao động trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên mà bị mất việc làm theo quy định tại khoản 11, Điều 34, của Bộ luật này, cứ mỗi năm làm việc trả 01 tháng tiền lương nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương. 2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm. 3. Tiền lương để tính trợ cấp mất việc làm là tiền lương bình quân của 06 tháng liền kề theo hợp đồng lao động trước khi người lao động mất việc làm. Đồng thời, chị Thắm có thể được hưởng trợ cấp thất nghiệp từ cơ quan bảo hiểm nếu đáp ứng đủ điều kiện tại Điều 81, Luật Bảo hiểm xã hội. Mức trợ cấp thất nghiệp được quy định cụ thể tại Điều 82, Luật Bảo hiểm xã hội. Hỏi: Công ty nơi anh trai tôi làm việc có ký hợp đồng học nghề với người lao động. Sau 1 tháng học nghề thì công ty sẽ ký hợp đồng chính thức nếu đạt yêu cầu. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, việc công ty của anh trai tôi tổ chức cho người lao động học nghề như vậy có đúng pháp luật không? Trả lời: Điều 61, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định về học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động như sau: - Học nghề để làm việc cho người sử dụng lao động là việc người sử dụng lao động tuyển người vào để đào tạo nghề nghiệp tại nơi làm việc. Thời gian học nghề theo chương trình đào tạo của từng trình độ theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp. - Tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động là việc người sử dụng lao động tuyển người vào để hướng dẫn thực hành công việc, tập làm nghề theo vị trí việc làm tại nơi làm việc. Thời hạn tập nghề không quá 03 tháng. - Người sử dụng lao động tuyển người vào học nghề, tập nghề để làm việc cho mình thì không phải đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp; không được thu học phí; phải ký hợp đồng đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp. - Trong thời gian học nghề, tập nghề, nếu người học nghề, người tập nghề trực tiếp hoặc tham gia lao động thì được người sử dụng lao động trả lương theo mức do hai bên thỏa thuận. - Hết thời hạn học nghề, tập nghề, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động khi đủ các điều kiện theo quy định của Bộ luật Lao động. Như vậy, việc công ty của anh trai bạn tổ chức cho người lao động học nghề là không trái với quy định pháp luật. Hỏi: Anh Tú mới về làm việc tại doanh nghiệp chuyên sản xuất bao bì sản phẩm với quy mô khoảng gần 200 người lao động. Hiện tại anh Tú đang tìm hiểu các quy định về đối thoại tại nơi làm việc. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động phải tổ chức đối thoại tại nơi làm việc trong những trường hợp nào? Trả lời: Đối thoại tại nơi làm việc là việc chia sẻ thông tin, tham khảo, thảo luận, trao đổi ý kiến giữa người sử dụng lao động với người lao động hoặc tổ chức đại diện người lao động về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích và mối quan tâm của các bên tại nơi làm việc nhằm tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, cùng nỗ lực hướng tới giải pháp các bên cùng có lợi. Theo khoản 2, Điều 63, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021, người sử dụng lao động phải tổ chức đối thoại tại nơi làm việc trong những trường hợp sau đây: - Định kỳ ít nhất 01 năm một lần; - Khi có yêu cầu của một hoặc các bên; - Khi có vụ việc quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 36, các điều 42, 44, 93, 104, 118 và khoản 1 Điều 128 của Bộ luật Lao động. Hỏi: Tám là công nhân nhà máy, vừa bị tai nạn lao động nên đang nghỉ theo chế độ. Được biết nhà máy của Tám chỉ trả lương bằng tiền mặt. Sắp đến kỳ trả lương hàng tháng, trường hợp Tám không thể đến nhận lương thì phải giải quyết như thế nào theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019? Trả lời: Khoản 1, Điều 94, Bộ luật Lao động năm 2019 đã quy định trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp. Đây là điểm mới so với bộ luật lao động năm 2012. Như vậy, nếu Tám không thể đến nhà máy nhận lương, có thể ủy quyền cho người khác đến nhận hộ để đảm bảo quyền lợi của mình. Hỏi: Giả sử thời điểm cuối năm 2021, cơ quan tôi có nhiều việc cần phải làm thêm giờ, thậm chí là làm việc vào ban đêm. Vậy xin cho biết: Trong khoảng thời gian này, tôi và đồng nghiệp có được thanh toán tiền làm thêm giờ hay không? Nếu có, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 mức tính như thế nào? Trả lời: Điều 98, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc đang làm như sau: - Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%; - Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%; - Vào ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, tết, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày. Trường hợp người lao động làm việc vào ban đêm thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương thực trả theo công việc của ngày làm việc bình thường. Như vậy, trong trường hợp phải làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, cơ quan bạn có thể căn cứ vào quy định nêu trên để đề nghị thanh toán tiền làm thêm giờ để đảm bảo quyền lợi. Hỏi: Do vi phạm hợp đồng lao động, Tuấn đã bị người sử dụng lao động cho ngừng việc. Xin cho biết, Trường hợp này, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, Tuấn có được trả lương hay không? Trả lời: Điều 99, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, trong trường hợp ngừng việc, người lao động được trả lương như sau: - Nếu do lỗi của người sử dụng lao động thì người lao động được trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động; - Nếu do lỗi của người lao động thì người đó không được trả lương; những người lao động khác trong cùng đơn vị phải ngừng việc thì được trả lương theo mức do hai bên thỏa thuận nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu; - Nếu vì sự cố về điện, nước mà không do lỗi của người sử dụng lao động hoặc do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa, di dời địa điểm hoạt động theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc vì lý do kinh tế thì hai bên thỏa thuận về tiền lương ngừng việc như sau: + Trường hợp ngừng việc từ 14 ngày làm việc trở xuống thì tiền lương ngừng việc được thỏa thuận không thấp hơn mức lương tối thiểu; + Trường hợp phải ngừng việc trên 14 ngày làm việc thì tiền lương ngừng việc do hai bên thỏa thuận nhưng phải bảo đảm tiền lương ngừng việc trong 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu. Như vậy, trong trường hợp của Tuấn, do Tuấn vi phạm hợp đồng lao động nên lỗi được xác định là của Tuấn nên Tuấn sẽ không được trả lương ngừng việc. Hỏi: Quang là công nhân của xưởng chế tác gỗ, trong một lần làm việc, Quang lỡ làm hỏng máy cắt gỗ của xưởng, phải bồi thường thiệt hại. Chủ xưởng cho biết sẽ khấu trừ vào tiền lương của Quang. Đề nghị cho biết, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, mức khấu trừ tiền lương là bao nhiêu? Trả lời: Điều 102, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, Người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Như vậy, theo quy định tại Điều 102, Quang sẽ bị người sử dụng lao động khấu trừ không quá 30% tiền lương tháng sau khi đã trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập cá nhân. Hỏi: Giám đốc công ty tôi đã hứa năm 2021, nếu hoàn thành mọi chỉ tiêu đề ra trước thời hạn để kịp chào mừng 10 năm ngày thành lập công ty, tất cả các nhân viên đều được thưởng. Bình thường các năm trước chúng tôi hay được thưởng tiền, tuy nhiên, nhiều người vẫn mong được nhận mức thưởng theo hình thức khác như hiện vật hay một chuyến du lịch cho cả công ty. Xin cho biết, Bộ luật Lao động năm 2019 có quy định mới về thưởng không? Trả lời: Điều 104 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, thưởng là số tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động. Đây là một điểm mới so với Bộ luật lao động năm 2012, trước đây, chỉ quy định về “tiền thưởng”. Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định và công bố công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở. Như vậy, các bạn có thể đề xuất ý kiến về quy chế thưởng với giám đốc công ty thông qua tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở để được thống nhất trước khi quyết định. Hỏi: Trong tháng 8, chị Hoàn Anh - làm công nhân ở nhà máy bánh kẹo Toàn Thành đã mắc nhiều lỗi trong công việc: theo ghi nhận của máy chấm công, chị đi làm muộn 05 ngày, với hành vi này theo nội quy công ty chị sẽ bị phạt khiển trách; chị đã trộn sai tỷ lệ nguyên liệu làm hỏng một mẻ bánh lớn, gây thiệt hại cho nhà máy, với lỗi này theo quy định chị sẽ bị trừ tiền lương để khắc phục hậu quả và điều chuyển sang một công việc khác. Xin cho biết, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, chị Hoàng Anh có phải nhận tất cả các hình thức kỷ luật với các lỗi mình gây ra không? Trả lời: Theo quy định tại Điều 122, Bộ luật Lao động năm 2019 về nguyên tắc, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật lao động thì: 1. Việc xử lý kỷ luật lao động được quy định như sau: a) Người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động; b) Phải có sự tham gia của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà người lao động đang bị xử lý kỷ luật là thành viên; c) Người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc tổ chức đại diện người lao động bào chữa; trường hợp là người chưa đủ 15 tuổi thì phải có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật; d) Việc xử lý kỷ luật lao động phải được ghi thành biên bản. 2. Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động. 3. Khi một người lao động đồng thời có nhiều hành vi vi phạm kỷ luật lao động thì chỉ áp dụng hình thức kỷ luật cao nhất tương ứng với hành vi vi phạm nặng nhất. 4. Không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây: a) Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động; b) Đang bị tạm giữ, tạm giam; c) Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều 125 của Bộ luật này (Cụ thể: 1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc; 2. Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động); d) Người lao động nữ mang thai; người lao động nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi. 5. Không xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động vi phạm kỷ luật lao động trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Chiếu theo quy định trên chị Hoàng Anh đồng thời có nhiều hành vi vi phạm kỷ luật lao động: đi muộn, trộn sai nguyên liệu làm hỏng mẻ bánh thì chỉ áp dụng hình thức kỷ luật cao nhất tương ứng với hành vi vi phạm nặng nhất là trộn sai nguyên liệu, chị sẽ bị trừ tiền lương để khắc phục hậu quả và điều chuyển sang một công việc khác và không bị phạt khiển trách. Hỏi: Do có xích mích trong công việc, Thu và Tú đã đánh nhau trong công ty và làm hư hại một số thiết bị máy móc trong nhà xưởng. Thu và Tú biết sẽ phải bồi thường một khoản tiền lớn, nên đã không cho ai biết việc này. Do thời gian trước công ty ít việc, nên số máy móc đó cũng chưa dùng tới, khi có việc, cần dùng thì máy đã hỏng. Ban đầu, mọi người nghĩ là do để lâu không dùng nên hỏng; nhưng khi mang đi kiểm tra, sửa chữa phát hiện ra máy móc bị phá hoại. Bộ phận an ninh của công ty qua camera giám sát đã điều tra và phát hiện ra Thu và Tú là người đã làm hỏng. Từ thời điểm Thu và Tú làm hư hỏng đến khi điều tra ra sự việc đã hơn 04 tháng. Vậy theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, Công ty còn có thể xử lý kỷ luật đối với Thu và Tú không? Trả lời: Điều 123, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định thời hiệu xử lý kỷ luật lao động như sau: 1. Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 06 tháng kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của người sử dụng lao động thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động là 12 tháng. 2. Khi hết thời gian quy định tại khoản 4 Điều 122 của Bộ luật Lao động, nếu hết thời hiệu hoặc còn thời hiệu nhưng không đủ 60 ngày thì được kéo dài thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động nhưng không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên. 3. Người sử dụng lao động phải ban hành quyết định xử lý kỷ luật lao động trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 nêu trên. Như vậy, công ty có thể xử lý kỷ luật đối với Thu và Tú vì vẫn còn thời hiệu xử lý kỷ luật lao động. Hỏi: Trong giờ nghỉ trưa, anh Cường thường rủ mấy anh em khác đánh bạc ăn tiền trong xưởng sửa chữa tàu thủy. Vì cay cú ăn thua mà đã có lần anh Cường đánh bạn chơi gây thương tích. Mọi người tham gia bị công ty xử phạt khiển trách. Sau đó 02 tháng, anh Cường lại rủ rê những người khác chơi, và bị bảo vệ phát hiện. Vì anh Cường là người rủ rê mọi người chơi nên bị xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải; còn những người khác chỉ bị trừ lương, nếu tái phạm cũng bị sa thải. Cho rằng xử phạt của Công ty với anh như vậy là quá nặng nên anh Cường khiếu nại việc sa thải mình. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, Công ty nơi anh Cường làm việc xử lý kỷ luật như vậy có đúng không? Trả lời: Theo quy định tại khoản 1, Điều 125, Bộ luật Lao động năm 2019 thì Công ty hoàn toàn có thể xử lý kỷ luật đối với anh Cường vì hành vi đánh bạc trong công ty dù là đang trong giờ nghỉ trưa. Cụ thể: Điều 125, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong trường hợp sau đây: 1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc; 2. Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động; 3. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật. Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật; 4. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng. Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động. Hỏi: Công ty tôi bị thất thoát một số tiền lớn, Trưởng phòng kế toán bị tạm đình chỉ công việc để xác minh, lương của công nhân cũng vì thế bị hoãn chưa được thanh toán, hẹn khi nào xác minh xong sẽ chi trả. Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, thời hạn tạm đình chỉ để xác minh là bao lâu? Trả lời: Theo quy định tại khoản 2, Điều 128, Bộ luật Lao động năm 2019 thì nếu trưởng phòng kế toán bị tạm đình chỉ công việc để xác minh số tiền đã thất thoát, thì thời hạn tạm định chỉ không được quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt không quá 90 ngày. Cũng theo quy định tại Điều 128, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về tạm đình chỉ công việc thì: 1. Người sử dụng lao động có quyền tạm đình chỉ công việc của người lao động khi vụ việc vi phạm có những tình tiết phức tạp nếu xét thấy để người lao động tiếp tục làm việc sẽ gây khó khăn cho việc xác minh. Việc tạm đình chỉ công việc của người lao động chỉ được thực hiện sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở mà người lao động đang bị xem xét tạm đình chỉ công việc là thành viên. 2. Thời hạn tạm đình chỉ công việc không được quá 15 ngày, trường hợp đặc biệt không được quá 90 ngày. Trong thời gian bị tạm đình chỉ công việc, người lao động được tạm ứng 50% tiền lương trước khi bị đình chỉ công việc. Hết thời hạn tạm đình chỉ công việc, người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc. 3. Trường hợp người lao động bị xử lý kỷ luật lao động, người lao động cũng không phải trả lại số tiền lương đã tạm ứng. 4. Trường hợp người lao động không bị xử lý kỷ luật lao động thì được người sử dụng lao động trả đủ tiền lương cho thời gian bị tạm đình chỉ công việc. Hỏi: Chị Giang làm việc cho một công ty nước ngoài và được ký hợp đồng có thời hạn 02 năm từ tháng 12/2019 đến tháng 12/2021. Giả sử, năm 2021 chị Giang mang thai và sinh con vào tháng 11/2021. Vậy tới ngày hết hạn hợp đồng lao động (12/2021), công ty có quyền chấm dứt hợp đồng với chị Giang không? Trả lời: Khoản 3, Điều 137, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực ngày 01/01/2021 quy định: “Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động hoặc bị cơ quan chuyên môn về đăng ký kinh doanh thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ra thông báo không có người đại diện theo pháp luật, người được ủy quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật. Trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới.” - Khoản 1 điều 34 Bộ luật Lao động quy định về chấm dứt hợp đồng lao động khi hết hạn hợp đồng lao động. Trong tình huống trên, hợp đồng lao động của chị Giang có hiệu lực từ tháng 12/2019 đến tháng 12/2021 là hợp đồng lao động có xác định thời hạn 2 năm. Có thể xử lý theo 02 trường hợp sau: Trường hợp 1: Trước khi hết hạn hợp đồng lao động nếu chị Giang có nhu cầu tiếp tục làm việc tại công ty thì người sử dụng lao động phải ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới với chị Giang Trường hợp 2: Nếu trước khi hết hiệu lực hợp đồng lao động mà 2 bên không có thỏa thuận gì bằng văn bản thì công ty có quyền chấm dứt hợp đồng lao động với chị Giang vào thời điểm tháng 12/2021 mà không phụ thuộc vào việc chị Giang mang thai hay không. Vậy để đảm bảo quyền lợi của mình, trước khi hết hạn hợp đồng, chị Giang nên đề nghị, thỏa thuận cụ thể với người sử dụng lao động để được ký tiếp hợp đồng lao động nếu hai bên có nhu cầu. Hỏi: Tôi mới phát hiện có thai, bác sỹ tại phòng khám tư yêu cầu tôi nghỉ ngơi cho qua 03 tháng để giữ thai nhi ổn định, vì cơ địa của tôi không tốt, dễ hư thai nếu đi lại vận động nhiều. Tôi xin nhà máy nghỉ không lương 02 tháng, nhưng nhà máy yêu cầu phải có đơn xác nhận của bác sỹ tại bệnh viện huyện về thời gian tạm nghỉ, chứ không chấp nhận xác nhận của bác sỹ tư nhân. Bệnh viện huyện ở xa nhà tôi, đi lại bất tiện. Nhà máy yêu cầu như vậy có đúng quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 không? Trả lời: Việc nhà máy yêu cầu phải có đơn xác nhận tại bệnh viện huyện là không đúng quy định của luật lao động, luật không yêu cầu bắt buộc phải có đơn xác nhận thời gian tạm nghỉ của lao động nữ mang thai mà linh hoạt cho bên người lao động và người sử dụng lao động tự thỏa thuận về thời gian này. Cụ thể Điều 138, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về quyền đơn phương chấm dứt, tạm hoãn hợp đồng lao động của lao động nữ mang thai như sau: 1. Lao động nữ mang thai nếu có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi thì có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động thì phải thông báo cho người sử dụng lao động kèm theo xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi. 2. Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Hỏi: Sau khi sinh con được 4 tháng, chị Hoa đi làm lại, dù theo pháp luật lao động chị Hoa được nghỉ 06 tháng. Chị đề nghị cho biết: a) Chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ được pháp luật quy định như thế nào? b) Đi làm sớm hơn, chị có được hưởng trợ cấp thai sản trong 02 tháng chênh lệch không? Trả lời: a) Nhằm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, bảo vệ lao động nữ, Bộ luật Lao động năm 2019 đã có 1 chương riêng riêng quy định đối với lao động nữ và bảo đảm bình đẳng giới (từ Điều 135 đến Điều 142 Bộ luật Lao động năm 2019. Bộ luật Lao động năm 2019 đã quy định cụ thể chính sách của Nhà nước đối với lao động nữ tại Điều 135 như sau: - Bảo đảm quyền bình đẳng của lao động nữ, lao động nam, thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc. - Khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ, lao động nam có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, làm việc không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà. - Có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hòa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. - Có chính sách giảm thuế đối với người sử dụng lao động có sử dụng nhiều lao động nữ theo quy định của pháp luật về thuế. - Nhà nước có kế hoạch, biện pháp tổ chức nhà trẻ, lớp mẫu giáo ở nơi có nhiều lao động. Mở rộng nhiều loại hình đào tạo thuận lợi cho lao động nữ có thêm nghề dự phòng và phù hợp với đặc điểm về cơ thể, sinh lý và chức năng làm mẹ của phụ nữ. - Chính phủ quy định chi tiết Điều này. b) Khoản 4, Điều 139, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định tại khoản 1 nêu trên, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng nhưng người lao động phải báo trước, được người sử dụng lao động đồng ý và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của người lao động. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Như vậy, chị Hoa vẫn được hưởng trợ cấp thai sản trong 02 tháng chị đi làm sớm hơn khi thực hiện đúng và đầy đủ quy định tại khoản 4, Điều 139, Bộ Luật Lao động năm 2019. Hỏi: Gia đình tôi có nghề mây tre đan truyền thống, gần đây do nhu cầu đáp ứng thời hạn giao hàng nên tôi có thuê thêm một số cháu nhỏ từ đủ 15 tuổi dưới đến chưa đủ 18 tuổi làm ở xưởng. Xin cho biết, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định như thế nào đối với việc sử dụng lao động này? Trả lời Khoản 1, Điều 143. Bộ luật Lao động năm 2019 quy định lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi. Khi sử dụng lao động chưa thành niên nói chung và lao động từ đủ 15 tuổi dưới đến chưa đủ 18 tuổi phải tuân theo những nguyên tắc tại Điều 144, Bộ luật Lao động năm 2019, cụ thể như sau: - Lao động chưa thành niên chỉ được làm công việc phù hợp với sức khỏe để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách. - Người sử dụng lao động khi sử dụng lao động chưa thành niên có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động về các mặt lao động, sức khỏe, học tập trong quá trình lao động. - Khi sử dụng lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động phải có sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ; lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày tháng năm sinh, công việc đang làm, kết quả những lần kiểm tra sức khỏe định kỳ và xuất trình khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu. - Người sử dụng lao động phải tạo cơ hội để lao động chưa thành niên được học văn hóa, giáo dục nghề nghiệp, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề. Bên cạnh đó, Điều 145, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định cụ thể công việc và nơi làm việc cấm sử dụng lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Cụ thể: - Cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm các công việc sau đây: + Mang, vác, nâng các vật nặng vượt quá thể trạng của người chưa thành niên; + Sản xuất, kinh doanh cồn, rượu, bia, thuốc lá, chất tác động đến tinh thần hoặc chất gây nghiện khác; + Sản xuất, sử dụng hoặc vận chuyển hóa chất, khí gas, chất nổ; + Bảo trì, bảo dưỡng thiết bị, máy móc; + Phá dỡ các công trình xây dựng; + Nấu, thổi, đúc, cán, dập, hàn kim loại; + Lặn biển, đánh bắt thủy, hải sản xa bờ; + Công việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên. - Cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi làm việc ở các nơi sau đây: + Dưới nước, dưới lòng đất, trong hang động, trong đường hầm; + Công trường xây dựng; + Cơ sở giết mổ gia súc; + Sòng bạc, quán bar, vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở tắm hơi, cơ sở xoa bóp; điểm kinh doanh xổ số, dịch vụ trò chơi điện tử; + Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên. - Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định danh mục công việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên; Nơi làm việc khác gây tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa thành niên Ngoải ra, khoản 2, Điều 146, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định thời giờ làm việc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không được quá 08 giờ trong 01 ngày và 40 giờ trong 01 tuần. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có thể được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm trong một số nghề, công việc theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Hỏi: Tôi có làm gia công một số đồ chơi trẻ em phục vụ dịp tết, do cần lao công gấp, tiền lương lại không cao, nên khó thuê người làm. Gần nhà tôi có dãy nhà trọ cho học sinh, có cháu rảnh buổi chiều, có cháu rảnh buổi sáng. Tôi đã hỏi các cháu và các cháu đồng ý nhận làm thêm giúp. Xin cho biết, khi thuê các cháu học sinh từ đủ 13 đến chưa đủ 15 tuổi làm việc tôi phải làm thủ tục gì không? Trả lời: Theo quy định của Điều 145, Bộ luật Lao động năm 2019 về sử dụng người chưa thành niên làm việc nếu người lao động chưa đủ 15 tuổi thì người chủ sử dụng lao động phải tuân theo các quy định sau đây: - Phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của người đó; - Bố trí giờ làm việc không ảnh hưởng đến thời gian học tập của người chưa đủ 15 tuổi; - Phải có giấy khám sức khỏe của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền xác nhận sức khỏe của người chưa đủ 15 tuổi phù hợp với công việc và tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ ít nhất một lần trong 06 tháng; - Bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn, vệ sinh lao động phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, người sử dụng lao động chỉ được tuyển dụng và sử dụng người từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi vào làm các công việc nhẹ theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Người sử dụng lao động không được tuyển dụng và sử dụng người chưa đủ 13 tuổi làm việc, trừ các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi và phải có sự đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Bên cạnh đó, khoản 1, Điều 146, Bộ luật Lao động năm 2019 về thời giờ làm việc của người chưa đủ 15 tuổi không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần; không được làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm. Hỏi: Chị Vân, người Việt Nam đã kết hôn với người nước ngoài có quốc tịch Đức. Sau khi kết hôn, chị tôi theo chồng về Đức, nhưng nay lại muốn về Việt Nam sinh sống. Đề nghị cho biết: a) Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, những trường hợp người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động? b) Trường hợp chồng của chị cũng về Việt Nam làm việc thì có bắt buộc phải làm thủ tục xin cấp phép lao động hay không? Trả lời: a) Điều 154, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không thuộc diện cấp giấy phép lao động trong các trường hợp sau đây: - Là chủ sở hữu hoặc thành viên góp vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn có giá trị góp vốn theo quy định của Chính phủ. - Là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần có giá trị góp vốn theo quy định của Chính phủ. - Là Trưởng văn phòng đại diện, dự án hoặc chịu trách nhiệm chính về hoạt động của tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam. - Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ. - Vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được. - Là luật sư nước ngoài đã được cấp Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam theo quy định của Luật Luật sư. - Trường hợp theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Người nước ngoài kết hôn với người Việt Nam và sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. - Trường hợp khác theo quy định của Chính phủ. b) Theo quy định tại Khoản 8 Điều 154 Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ 01/01/2021, Người chồng có quốc tịch Đức trong trường hợp nêu trên có thể về Việt Nam sinh sống và làm việc mà không phải cấp phép lao động Hỏi: Có ý kiến cho rằng giúp việc gia đình không nên hiểu ở phạm vi hẹp là việc một người đến gia đình khác ở để chăm sóc trẻ, người già, mà có thể làm các công việc như làm vườn, lái xe và không nhất thiết phải đến ở với chủ hộ. Xin cho biết, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định như thế nào về người giúp việc gia đình? Trả lời: Điều 161, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định lao động là người giúp việc gia đình là người lao động làm thường xuyên các công việc trong gia đình của một hoặc nhiều hộ gia đình. Các công việc trong gia đình bao gồm công việc nội trợ, quản gia, chăm sóc trẻ em, chăm sóc người bệnh, chăm sóc người già, lái xe, làm vườn và các công việc khác cho hộ gia đình nhưng không liên quan đến hoạt động thương mại. Như vậy, phạm vi công việc của người lao động là giúp việc gia đình không chỉ là chăm sóc trẻ em, người già mà có thể là công việc nội trợ, quản gia, lái xe, làm vườn…, mặt khác pháp luật không quy định người lao động là giúp việc gia đình phải đến ở cùng người thuê. Nhưng nếu hai bên thỏa thuận thì người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ bố trí chỗ ăn, ở hợp vệ sinh cho người giúp việc gia đình. Hỏi: Chị Kim làm giúp việc gia đình cho vợ, chồng chị Vân và hai bên thỏa thuận bằng văn bản thời hạn là 02 năm. Hơn 01 năm, vì hoàn cảnh gia đình, chị Kim muốn nghỉ việc về quê. Chị Vân không đồng ý, cho rằng chị Kim đã vi phạm thời hạn hợp đồng và không trả 01 tháng tiền lương. Trường hợp này được giải quyết như thế nào? Trả lời: Điều 162, Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động là người giúp việc gia đình. Thời hạn của hợp đồng lao động đối với lao động là người giúp việc gia đình do hai bên thỏa thuận. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động bất kỳ khi nào nhưng phải báo trước ít nhất 15 ngày. Hai bên thỏa thuận trong hợp đồng lao động về hình thức trả lương, kỳ hạn trả lương, thời giờ làm việc hằng ngày, chỗ ở. Theo đó, đối với trường hợp nêu trên, chị Kim có quyền chấm dứt hợp đồng lao động mặc dù chưa hết thời hạn theo thỏa thuận. Tuy nhiên, chị Kim phải báo trước cho chị Vân biết trước ít nhất 15 ngày. Việc chị Vân không trả 01 tháng tiền lương là trái pháp luật. Hỏi: Một số gia đình khi thuê người giúp việc gia đình vẫn thường than phiền khi tết đến phải cho người giúp việc tiền tàu xe, còn sợ sau tết họ lại bỏ việc. Đề nghị cho biết, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định về vấn đề này như thế nào? Những hành vi nạo bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động là giúp việc gia đình? Trả lời: * Điều 163, Bộ luật Lao động năm 2019, có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định một số nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi sử dụng lao động là người giúp việc gia đình như sau: - Tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người giúp việc gia đình. - Bố trí chỗ ăn, ở hợp vệ sinh cho người giúp việc gia đình nếu có thỏa thuận. - Tạo cơ hội cho người giúp việc gia đình được tham gia học văn hóa, giáo dục nghề nghiệp. - Trả tiền tàu xe đi đường khi người giúp việc gia đình thôi việc về nơi cư trú, trừ trường hợp người giúp việc gia đình chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn. * Điều 165, Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với người sử dụng lao động như sau: - Ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động, dùng vũ lực đối với lao động là người giúp việc gia đình. - Giao việc cho người giúp việc gia đình không theo hợp đồng lao động. - Giữ giấy tờ tùy thân của người lao động. MỤC LỤC Trang I. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ LUẬT SỬA ĐỔI MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ SỐ 100/2015/QH13 NĂM 2017 VỀ TỘI PHẠM, HÌNH PHẠT VÀ XÓA ÁN TÍCH II. TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐINH CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG TÁC HẠI CỦA RƯỢU, BIA NĂM 2019 III. MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI (Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 19/11/2019) IV. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2019 Chịu trách nhiệm sản xuất BÙI ĐÌNH SƠN Giám đốc Sở Tư pháp Chịu trách nhiệm nội dung Hoàng Văn Truyền Biên tập PHAN VĂN ĐẠI Sửa bản in THU HÀ, DƯƠNG VÂN, CAO PHƯƠNG
   

Nhập nội dung ý kiến của bạn.
Nhập tên của bạn.
Nhập email của bạn.