Ngày 18/01/2024, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 5, Quốc hội đã biểu quyết thông qua dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Điểm nổi bật quan trọng của luật này là tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động ngân hàng, hoàn thiện khung pháp lý về xử lý tổ chức tín dụng gặp rủi ro và luật hóa một số quy định về xử lý nợ xấu. Trước đây, vấn đề liên quan đến việc xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng được quy định trong Nghị quyết 42/2017/QH14 (hết hiệu lực từ ngày 01/01/2024) về việc thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng. Thay vào đó, đến thời điểm hiện tại thì Nghị quyết 63/2022/QH15 được thực thi. Mặc dù trước đó đã có quy định về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tuy nhiên, quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu vẫn chưa được thực hiện.
Về khái niệm nợ xấu
Theo Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), nợ xấu được định nghĩa như sau: Nợ xấu của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài bao gồm hai loại chính:
- Khoản nợ xấu đã được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Đây là những khoản nợ mà các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã xác định là không thể thu hồi được hoặc có rủi ro cao về việc thu hồi. Các khoản nợ này đã được ghi nhận trong bảng cân đối kế toán theo quy định của cơ quan quản lý, thường là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trong trường hợp của Việt Nam.
- Nợ xấu được dự phòng rủi ro nhưng vẫn chưa thu hồi được và đang được theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán: Đây là những khoản nợ mà tổ chức tín dụng đã xác định có khả năng không thu hồi được hoặc có rủi ro cao, và đã dự phòng một phần hoặc toàn bộ để xử lý. Tuy nhiên, những khoản nợ này vẫn chưa được thu hồi và vẫn đang được theo dõi bên ngoài bảng cân đối kế toán.
- Ngoài ra, nợ xấu cũng có thể bao gồm những khoản nợ mà tổ chức tín dụng đã mua hoặc xử lý từ tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhưng vẫn chưa thu hồi được. Đây là những khoản nợ mà tổ chức tín dụng đã mua từ các bên khác như một phần của quá trình xử lý nợ xấu hoặc mua lại từ các tổ chức khác, nhưng vẫn chưa thành công trong việc thu hồi chúng. Các khoản nợ này thường được xem xét và xử lý một cách cẩn thận để đảm bảo rằng các biện pháp thích hợp được áp dụng để thu hồi nợ. Điều này có thể bao gồm việc tái cấu trúc nợ, đàm phán với nợ nhân, hoặc thậm chí là việc tiến hành các biện pháp pháp lý để thu hồi nợ tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi khoản nợ.
Về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu
Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, kể từ ngày 01/7/2024, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được quy định cụ thể như sau:
Số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được phân chia theo thứ tự ưu tiên như sau:
- Chi phí bảo quản tài sản bảo đảm.
- Chi phí thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm.
- Án phí của bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm.
- Khoản thuế, lệ phí trực tiếp liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm đó gồm thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ.
- Nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ.
- Nghĩa vụ khác không có bảo đảm theo quy định của pháp luật.
(Căn cứ khoản 1 Điều 199 Luật Các tổ chức tín dụng 2024)
Trong trường hợp một tài sản được sử dụng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên nhận bảo đảm sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật về dân sự và các quy định liên quan khác. Điều này đã được Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2024 thống nhất để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm của nợ xấu và đảm bảo rằng các bên nhận bảo đảm được xử lý một cách công bằng và đồng nhất, và cũng giúp tăng cường tính minh bạch và dễ dàng quản lý trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm.
(Căn cứ khoản 2 Điều 199 Luật Các tổ chức tín dụng 2024)
Quy định về chuyển nhượng tài sản bảo đảm
Kể từ ngày 01/7/2024, việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm được thực hiện theo quy định tại Điều 200 Luật Các tổ chức tín dụng 2024 , cụ thể như sau:
- Cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản có trách nhiệm thực hiện thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho bên mua, bên nhận chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Trừ các khoản án phí, thuế, lệ phí trực tiếp liên quan đến việc chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại Mục 1 bên trên, bên nhận bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng không phải nộp thay hoặc thực hiện nghĩa vụ thuế, lệ phí, phí khác của bên bảo đảm từ số tiền chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi thực hiện thủ tục đăng ký, thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó. Việc nộp thuế của bên bảo đảm, bên nhận chuyển nhượng liên quan đến chuyển nhượng tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đó thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế.
- Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của tổ chức tín dụng, công ty quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật về các tổ chức tín dụng được quyền chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản là tài sản bảo đảm để thu hồi nợ theo quy định về chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần dự án bất động sản của Luật Kinh doanh bất động sản và quy định khác của pháp luật có liên quan nhưng không phải áp dụng quy định về điều kiện chủ thể kinh doanh bất động sản đối với bên chuyển nhượng dự án bất động sản của Luật Kinh doanh bất động sản( Riêng quy định này áp dụng từ ngày 01/01/2025)
Có thể thấy rằng, quy định này đã tạo nên một hành lang pháp lý chặt chẽ trong việc triển khai hoạt động của các tổ chức tín dụng, khắc phục những vướng mắc, bất cập hiện hành./.
Hoàng Anh |
Nguồn tin: Văn bản pháp luật |
File đính kèm |